Bản án 10/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST - HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H – sinh năm 1985, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn A1, xã A2, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Lâm Thị D (đều đã chết); có vợ Nguyễn Thị N (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại bản án số 221/2007/HSST ngày 28 tháng 9 năm 2007 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố Hải Phòng xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội "Cướp giật tài sản", được đặc xá ngày 30 tháng 8 năm 2010; tại Bản án số 13/2017/HSST ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", chấp hành xong hình phạt tù ngày 27 tháng 7 năm 2018; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 24 tháng 10 năm 2018, chuyển tạm giam ngày 01 tháng 11 năm 2018; có mặt tại phiên tòa.

- Những người làm chứng: Anh Phạm Thái H1 và bà Hoàng Thị T; đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 24 tháng 10 năm 2018, tại quán nước gần cơ sở điều trị Methadol (thuộc địa bàn thôn N, xã A2, huyện A, thành phố Hải Phòng), tổ công tác của Đồn Công an khu công nghiệp N kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán cho người khác. Vật chứng thu giữ: 01 ví da màu nâu bên trong có 01 túi nilon kích thước 2,5x2,5 cmchứa tinh thể màu trắng (mẫu 01 QT), trên vành mũ lưỡi trai màu đen có 03 gói giấy nhỏ màu trắng kích thước 01x02cm trong chứa chất bột màu trắng (mẫu 02 QT) và số tiền 150.000đ.

Tiến hành khám xét nơi ở của bị cáo Nguyễn Văn H, Cơ quan điều tra đã thu giữ: Tại đầu giường phòng ngủ của Hòa 01 ví vải màu nâu bên trong có 10 gói giấy nhỏ màu trắng, kích thước mỗi gói 01x02cm bên trong chứa chất bột màu trắng (mẫu 01 KX).

Tại bản kết luận giám định số 583/KLGĐ(Đ6) ngày 26 tháng 10 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng đã kết luận:

Mẫu số 01 QT: Là ma túy có khối lượng 0,4206 gam là loại Methaphetamin;

Mẫu số 02 QT: Là ma túy có khối lượng 0,1604 gam là loại Heroin;

Mẫu số 01 KX: Là ma túy có khối lượng 0,5757 gam là loại Heroin;

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận: Chiều ngày 23 tháng 10 năm 2018 với mục đích mua ma túy về sử dụng và bán cho người khác kiếm lời, bị cáo đã đi xe ôm đến khu vực đường tàu ở phường C, quận L, thành phố Hải Phòng mua của một người đàn ông không quen biết 1.200.000đ ma túy loại Heroin và 200.000đ ma túy đá. Về nhà, bị cáo chia nhỏ số Heroin thành 21 gói, sau đó bị cáo sử dụng hết 06 gói. Tối ngày 23 tháng 10 năm 2018, bị cáo đã bán cho một người đàn ông không quen biết 02 gói Heroin với giá 150.000đ. Sáng ngày 24 tháng 10 năm 2018, bị cáo mang theo 03 gói Heroin và 01 gói ma túy đá đến gần khu vực cơ sở điều trị Mathadol để có người hỏi mua thì bị bắt quả tang. Ngoài ra bị cáo còn khai nhận, trước khi bị bắt, mỗi ngày bị cáo còn bán cho khoảng 10 đối tượng không rõ lai lịch

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân và bán cho người khác kiếm lời đã bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang vào ngày 24 tháng 10 năm 2018 tại thôn N, xã A2, huyện A; thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Ngoài bị cáo ra, không có ai khác có liên quan hoặc cùng tham gia thực hiện hành vi.

Công bố lời khai những người làm chứng có nội dung như bị cáo khai nhận.

Tại Cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 36 đến 42 tháng tù về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì mẫu vật. Tịch thu tiêu hủy 01 ví da màu nâu kích thước 9,5x13cm; 01 ví vải màu nâu kích thước 05x05x01cm; 01 mũ lưỡi trai màu đen. Tịch thu sung công số tiền 150.000đ đã thu giữ trong vụ án.

Khi nói lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn H đã ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang do Công an huyện A lập vào hồi 11 giờ 00 phút ngày 24 tháng 10 năm 2018, phù hợp với Bản kết luận giám định số 583/KLGĐ(Đ6) ngày 26 tháng 10 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, phù hợp với lời khai người làm chứng; phù hợp với vật chứng đã được thu giữ, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,4206 gam Methaphetamine và 0,7361 gam Heroin nhằm mục đích sử dụng cho bản thân hoặc bán cho người khác nhằm mục đích kiếm lời.

[3] Theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ thì Heroin có số thứ tự 09 thuộc danh mục I; Methaphetamine có số thứ tự 323 thuộc danh mục II - Danh mục các chất ma túy.

[4] Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội, gây nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, hành vi tàng trữ trái phép 0,4206 gam Methaphetamine và 0,7361 gam Heroin nhằm mục đích bán cho người khác để kiếm lời của bị cáo đã phạm vào tội: “ Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Xét tình tiết định khung hình phạt:

[5] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có khai nhận tối ngày 23 tháng 10 năm 2018, bị cáo đã bán cho một người đàn ông không quen biết 02 gói Heroin với giá 150.000đ và trước khi bị bắt, mỗi ngày bị cáo còn bán cho khoảng 10 đối tượng không rõ lai lịch. Tuy nhiên tài liệu có trong hồ sơ không đủ căn cứ để kết luận bị cáo có hành vi đã bán trái phép chất ma túy nhiều lần hoặc cho nhiều người theo lời khai nhận của bị cáo nên không có cơ sở để truy tố, xét xử bị cáo với tình tiết "Phạm tội từ 02 lần trở lên" hoặc "Đối với 02 người trở lên" theo quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Trọng lượng Methaphetamine bị cáo tàng trữ là 0,4206 gam, trọng lượng Heroin bị cáo tàng trữ là 0,7361 gam; tổng trọng lượng các chất ma túy bị cáo tàng trữ là 1,1567 gam nên hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Tính chất vụ án là nghiêm trọng; việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[7] Tại bản án số 221/2007/HSST ngày 28 tháng 9 năm 2007 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố Hải Phòng đã xử phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của bản án này nên theo quy định của pháp luật bị cáo đã được xóa án. Tại bản số 13/2017/HSST ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 27 tháng 7 năm 2018 nên lần phạm tội này là “Tái phạm”. Vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[8] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; tỏ ra ăn năn, hối cải; bị cáo có bố là ông Nguyễn Văn Đ được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công Hạng ba nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[9] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự người phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước. Xét hoàn cảnh gia đình, tính chất mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện nên phạt bị cáo 5.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước.

- Về vật chứng, xử lý vật chứng:

[10] Trong vụ án, Cơ quan Điều tra đã thu giữ của bị cáo 0,4206 gam Methaphetamine và 0,7361 gam Heroin; 01 ví da màu nâu kích thước 9,5x13cm; 01 ví vải màu nâu kích thước 05x05x01cm; 01 mũ lưỡi trai màu đen và số tiền 150.000đ.

[11] Xét thấy số ma túy còn lại sau giám định thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[12] Đối với 01 ví da màu nâu kích thước 9,5x13cm; 01 ví vải màu nâu kích thước 05x05x01cm; 01 mũ lưỡi trai màu đen là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[13] Đối với số tiền 150.000đ là tài sản có được do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước.

- Về những vấn đề khác:

[14] Đối với đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo ngày 23 tháng 10 năm 2018 và những đối tượng mua ma túy của bị cáo do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[15] Về án phí: Theo quy định của pháp luật bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 và khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 42 (bốn mươi hai) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 24 tháng 10 năm 2018. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn H 5.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước.

- Về xử lý vật chứng:

Căn cứ các điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín các mép, bên trong có chứa số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ giấy gói của mẫu vật gửi giám định, trên có dấu niêm phong của cơ quan giám định số 583/KLGĐ(Đ6) có chữ ký của Nguyễn Văn H và các thành phần tham gia niêm phong; Tịch thu tiêu hủy với 01 ví da màu nâu; 01 ví nhỏ màu nâu kích thước 05x05x01cm; 01 mũ lưỡi trai màu đen; Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước số tiền 150.000đ đã thu giữ trong vụ án. (Toàn bộ số vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện A quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17 tháng 01 năm 2019 của Công an huyện A và Chi cục thi hành án dân sự huyện A).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về