Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 29 tháng 3 năm 2019 tại phòng xét xử trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 759/2019/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2019 về việc: Tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXX-ST ngày 12 tháng 3 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số: 05/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16/3/2019, giữa các đương sự:

- Ng uyên đơn : Chị Đặng Thị Ng, sinh năm 1989

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 6, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội. Hiện cư trú tại: Tổ 15, phường P, quận H, thành phố Hà Nội.

- Bị đơn

Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1983

Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Tổ 6, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 31 tháng 5 năm 2018 và bản tự khai ngày 28 tháng 11 năm 2018 cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Đặng Thị Ng trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn S chung sống với nhau từ năm 2012 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội ngày 05/02/2013. Sau kết hôn vợ chồng chung sống ở tổ 6, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống ngay từ thời gian đầu đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau. Do mâu thuẫn vợ chồng nên từ khoảng ngày 08/3/2015 chị Ng đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và vợ chồng đã sống ly thân nhau kể từ đó cho đến nay. Mâu thuẫn của chị Ng và anh S đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Nay chị Ng xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh S.

Về con chung: Chị Ng xác nhận vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Huy H ( nam), sinh ngày 20/6/2014, hiện nay cháu H đang sống cùng anh S. Ly hôn chị Ng đồng ý để anh S là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng là 1.000.000 đồng ( một triệu đồng ).

Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị Ng xác nhận vợ chồng không có tài sản gì chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Chị Ng xác nhận không vay nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Ng đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh S, nhưng anh S không đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Qua xác minh tại tổ dân phố số 6, phường Y và ý kiến của đại diện gia đình anh S thế hiện: Anh S và chị Ng trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S và chị Ng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên đánh, cãi chửi nhau. Mâu thuẫn của anh S, chị Ng đã được gia đình hai hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn vợ chồng nên chị Ng đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ của chị Ng ở từ tháng 3 năm 2015 cho đến nay.

Do anh S không đến Tòa nên Tòa án không tiến hành lấy được lời khai của anh S cũng như không hòa giải cho anh, chị đoàn tụ được.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Chị Ng giữ nguyên các yêu cầu nêu trên và không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề gì khác.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án ngày hôm nay Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành tố tụng theo đúng các trình tự thủ tục mà bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Sau khi phát biểu đánh giá các tình tiết của vụ án. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ng đối với anh S. Về con chung: Xác nhận chị Ng và anh S có 01 con chung là Nguyễn Huy H ( nam), sinh ngày 20/6/2014. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Ng giao cho anh S là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Huy H. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Ng cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng là 1.000.000 đồng. Về tài sản chung, công nợ: Chị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét

Về án phí: Chị Ng phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục: Quá trình tòa án tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án triệu tập anh S đến Tòa để giải quyết vụ án, nhưng anh S không đến Tòa. Tại phiên tòa hôm nay anh S đã được Tòa án tống đạt quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham phiên tòa, thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa nhưng anh S vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 207 và khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành giải quyết và xét xử vụ án vắng mặt anh S.

Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, bị đơn là anh Nguyễn Văn S. Anh S có nơi cư trú tại tổ dân phố 6, phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân quận Hà Đông thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Về nội dung:

[1].Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Ng và anh Nguyễn Văn S xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội chứng nhận kết hôn ngày 05 tháng 02 năm 2013 Hôn nhân của chị Ng, anh S là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai của chị Ng và ý kiến của đại diện tổ dân phố số 6, phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông cũng như ý kiến đại diện gia đình anh S đủ cơ sở xác định trong quá trình chung sống chị Ng, anh S luôn xảy ra mâu thuẫn và anh, chị đã sống ly thân nhau từ tháng 3 năm 2015 cho đến nay, hơn nữa trong quá trình giải quyết vụ án anh S đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh S không đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Vì vậy Tòa án không thể tiến hành hòa giải cho anh S, chị Ng đoàn tụ được. Việc anh S không đến Tòa án để tham gia hòa giải thể hiện anh không có mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, vì vậy việc chị Ng xin ly hôn anh S là có căn cứ chấp nhận và phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2]. Về con chung: Chị Ng xác nhận chị và S có 01 con chung là Nguyễn Huy H ( nam), sinh ngày 20/6/2014 . Ly hôn chị Ng đồng ý để anh S là người trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Huy H và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng là 1.000.000 đồng. Xét yêu cầu của chị Ng Hội đồng xét xử thấy: Kể từ khi chị Ng và anh S sống ly thân nhau thì cháu H vẫn do anh S trực tiếp nuôi dưỡng nên việc chị Ng đồng ý để cho anh S nuôi con là do sự tự nguyện của chị Ng và hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Nên căn cứ vào Điều 81 luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Huy H cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của chị Ng cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 1.000.000 đồng.

[3]. Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị Ng xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này anh S chứng minh vợ chồng có tài sản chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

[4]. Về nợ: Chị Ng xác nhận không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này anh S chứng minh vợ chồng có công nợ chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

[5]. Về án phí: Chị Ng phải chịu 300.000đồng án Dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông phát biểu và đề xuất hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Từ nhận định trên!

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81,82,83 của Luật hôn nhân và gia đình, Luật số 52/2014/QH13 ngày 19/6/2014.

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 146; 147; Điều 207; khoản 2 Điều 227; các Điều 271; 273; 278; 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đặng Thị Ng đối với anh Nguyễn Văn S.

Chị Đặng Thị Ng được ly hôn anh Nguyễn Văn S.

2.Về con chung: Xác nhận chị Đặng Thị Ng và anh Nguyễn Văn S có 01 con chung là Nguyễn Huy H ( nam), sinh ngày 20/6/2014. Giao cháu Nguyễn Huy H cho anh S là người trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Ng cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 1.000.000 đồng. Việc cấp dưỡng nuôi con được thực hiện kể từ tháng 4 năm 2019 cho đến khi cháu H trưởng thành đủ 18 tuổi.

Chị Ng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung (gồm động sản và bất động sản): Chị Ng xác nhận không có tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này anh S chứng minh vợ chồng có tài sản chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

4. Về nợ: Chị Ng xác nhận không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này anh S chứng minh vợ chồng có công nợ chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

5. Về án phí: Chị Đặng Thị Ng phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị Ng đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0002008 ngày 29/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông. Chị Ng còn phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Ng, vắng mặt anh S. Chị Ng được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh S được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về