Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 292/2019/TLST-HNGĐ ngày 21/12/2018 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12/3/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27/3/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị N, Sinh năm 1984.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn H, Sinh năm 1984.

Đều ĐKHKTT: Thôn TT, xã NH, huyện TH, tỉnh Thái Bình.

(Chị N vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt; Anh H vắng mặt tại phiên Tòa lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai ngày 21/12/2018, biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 07/3/2019 và đơn xin xét xử vắng mặt ngày 27/3/2019, chị Bùi Thị N trình bày: Chị và anh Phạm Văn H kết hôn với nhau là tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã NH, huyện TH vào ngày 28/11/2005. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 5 năm thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, anh H ham chơi, không tu chí làm ăn, mâu thuẫn căng thắng nhất là từ năm 2013. Từ năm 2013 cho đến nay anh chị sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị đề nghị TAND huyện T iền Hải giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Văn H.

Về con chung: Chị và anh Phạm Văn H có hai con chung là Phạm Phi T - Sn: 30/12/2006 và Phạm Nhật Bảo H - Sn: 24/6/2009. Hiện cả hai con đang ở cùng chị. Nguyện vọng của chị sau khi ly hôn là được trực tiếp nuôi cả hai con chung. Chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi hai con chung cùng chị.

Về tài sản và công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản lấy lời khai của bà Trần Thị K ( là mẹ đẻ của anh Phạm Văn H) trình bày: Anh Phạm Văn H và chị Bùi Thị N tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã NH, huyện TH vào ngày 28/11/2005. Sau khi kết hôn thì anh H, chị N về chung sống tại thôn TT, xã NH. Anh H, chị N chung sống hạnh phúc tuy nhiên cũng thỉnh thoảng có mâu thuẫn nhỏ về kinh tế. Nay chị N có đơn xin ly hôn, quan điểm của gia đình là không đồng ý để anh H và chị N ly hôn vì gia đình bà là gia đình công giáo. Gia đình đã nhận được thông báo, giấy triệu tập của Tòa án và đã thông báo lại cho anh H, anh H biết việc chị N xin ly hôn nhưng do anh H không đồng ý ly hôn nên anh không về Tòa án để làm việc.

Về con chung: Anh H và chị N có hai con là Phạm Phi T - Sn: 30/12/2006 và Phạm Nhật Bảo H - Sn: 24/6/2009. Về tài sản chung: Anh H và chị N có tài sản chung gồm 01 ngôi nhà 2 tầng tại thôn TT, xã NH. Anh H và chị N không vay nợ ai và không cho ai vay nợ.

*Tại biên bản xác minh ngày 01/3/2019, UBND xã NH, huyện TH cung cấp: Anh H và chị N đều có hộ khẩu thường trú tại xã NH, huyện TH và có đăng ký kết hôn tại UBND xã vào ngày 28/11/2005. Sau khi kết hôn anh H và chị N về chung sống tại thôn TT, xã NH. Anh H và chị N có hai con chung là Phạm Phi T - Sn: 2006 và Phạm Nhật Bảo H - Sn: 2009. Về tài sản chung của anh H và chị N chính quyền đ ịa phương không được rõ. Chị N xin ly hôn anh H, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hộ i đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án và trình bày quan điểm về đường lối giải quyết vụ án: Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị N được ly hôn anh Phạm Văn H. Về con chung: Giao cả hai con chung là Phạm Phi T - Sn: 30/12/2006 và Phạm Nhật Bảo H - Sn: 24/6/2009 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi hai con chung cùng chị. Về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Về án phí: Chị Bùi Thị N phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa cũng như phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

* Về tố tụng: Bị đơn là anh Phạm Văn H có hộ khẩu thường trú tại xã NH,huyện TH, tỉnh Thái Bình. Theo quy định tại điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình giữa chị Bùi Thị N và anh Phạm Văn H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và H giải cho anh H thông qua người thân của anh H nhưng anh H không đến Tòa án để làm việc là anh H đã từ chối quyền được trình bày, H giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh H nên đã đủ căn cứ để mở phiên tòa xét xử vụ án. Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải đã mở phiên tòa lần thứ nhất vào ngày 27 tháng 3 năm 2019 nhưng anh H không có mặt, Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, chị N có đơn xin xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, Hội đồng xét xử TAND huyện T iền Hải căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vụ án theo thủ tục chung.

* Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị N và anh Phạm Văn H kết hôn là tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã NH, huyện TH, tỉnh Thái Bình. Đó là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống vui vẻ, hạnh phúc được khoảng 5 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nhất từ năm 2013. Từ đó cho đến nay vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Xét yêu cầu của chị N xin ly hôn anh H, HĐXX thấy chị N và anh H sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay, quan hệ vợ chồng không còn tồn tại trên thực tế. Như vậy là hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị N, giải quyết cho chị N được ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Chị Bùi Thị N và anh Phạm Văn H có hai con chung là Phạm Phi T - Sn: 30/12/2006 và Phạm Nhật Bảo H - Sn: 24/6/2009. Xét thấy hiện cả hai con chung đang ở cùng chị N và các con chung đều có nguyện vọng được ở cùng với chị N, chị N cũng có nguyện vọng nuôi cả hai con chung. Vì vậy, để đảm bảo việc học tập và cuộc sống ổn định của các con thì cần tiếp tục giao cả hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Nên hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu cuả chị N. Giao cả hai con chung là Phạm Phi T và Phạm Nhật Bảo H cho chị Bùi Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị N không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuô i cả hai con chung nên không đặt ra giải quyết. Khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[3] Về tài sản chung, công nợ: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án không ghi được ý kiến của anh H nên phần tài sản chung và công nợ không đặt ra giải quyết. Khi nào anh H, chị N có yêu cầu chia tài sản và công nợ chung thì Tòa án sẽ thụ lý giải quyết bằng một vụ việc dân sự khác.

[4] Về án phí:

Chị Bùi Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 227,228, 271 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều51, 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 điều 27; điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Bùi Thị N được ly hôn với anh Phạm Văn H.

2/ Về con chung: G iao cả hai con chung là Phạm Phi T - Sn: 30/12/2006 và Phạm Nhật Bảo H - Sn: 24/6/2009 cho chị Bùi Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Việc cấp dưỡng nuôi các con chung không đặt ra giải quyết. Khi nào các đương sự có yêu cầu sẽ được thụ lý giải quyết bằng một vụ việc dân sự khác.

Anh Phạm Văn H có quyền thăm nom và giáo dục con chung.

3/ Về tài sản chung, công nợ: Không đặt ra giải quyết. Khi nào các đương sự có yêu cầu sẽ được thụ lý giải quyết bằng một vụ việc dân sự khác.

4/ Về án phí: Chị Bùi Thị N phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng chị N đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên lai thu số 0008923 ngày 21/12/2018 được chuyển thành tiền án phí.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về