Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 15.5.2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 568/2018/TLST-HNGĐ ngày 04.12.2018 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 568/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01.4.2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 568/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18.4.2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Nguyễn Quỳnh M, sinh năm 1988; Địa chỉ: K166/18 đường H, phường Hải Châu II, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

- Bị đơn: Ông Đặng Thành T, sinh năm 1988; Địa chỉ: K245/31 đường L, phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

(Bà M có mặt, ông T vắng mặt lần thứ 2 không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Tại đơn gửi Tòa án ngày 14.11.2018 và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Lê Nguyễn Quỳnh M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Đặng Thành T và bà Lê Nguyễn Quỳnh M kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống tại nhà ba mẹ ông T ở K245/31 đường L, phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Ông bà chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn bà M xác định do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên cãi vã. Từ năm 2017 cho đến nay ông bà đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Nay bà M xác định tình cảm vợ chồng không còn nên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Đặng Thành T.

- Về con chung: Bà M xác định ông bà có 01 con chung là Đặng Lê Uyên N, sinh ngày 18.12.2007. Ly hôn, nguyện vọng của bà M là được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đặng Lê Uyên N, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà M xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà M xác định không có.

* Mặc dù Tòa án đã làm các thủ tục theo quy định của pháp luật nhưng ông Đặng Thành T vẫn không có ý kiến phản hồi.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lê Nguyễn Quỳnh M được ly hôn với ông Đặng Thành T.

- Về quan hệ con chung: Giao con chung Đặng Lê Uyên N, sinh ngày 18.12.2007 cho bà Lê Nguyễn Quỳnh M trực tiếp nuôi dưỡng, ông Đặng Thành T không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà Lê Nguyễn Quỳnh M xác định tự thỏa thuận nên không đề cập.

- Về nợ chung: Bà Lê Nguyễn Quỳnh M xác định không có nên không đề cập.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và quan điểm giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Mặc dù Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã triệu tập hợp lệ ông Đặng Thành T lần thứ 2, nhưng tại phiên tòa hôm nay ông T vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Đặng Thành T và bà Lê Nguyễn Quỳnh M kết hôn với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Hội đồng xét xử xét yêu cầu ly hôn của bà M thì thấy: Trong suốt quá trình Tòa án giải quyết bà M kiên quyết xin được ly hôn với ông T vì quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường xuyên cãi vã. Tại phiên tòa bà M xác định tình cảm không còn, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017. Qua xác minh tại địa phương thì thấy mâu thuẫn vợ chồng như bà M đã trình bày, ông bà không còn chung sống với nhau. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, vợ chồng không còn chăm sóc, quan tâm đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần vận dụng Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà M đối với ông T là thoả đáng.

[3] Về con chung: Hội đồng xét xử xét thấy kể từ khi sống ly thân đến nay bà M vẫn đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên cần tiếp tục giao cháu Đặng Lê Uyên N, sinh ngày 18.12.2007 cho bà M nuôi dưỡng, ông T không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với Điều 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình cũng như nguyện vọng của cháu N.

[4] Về tài sản chung: Bà M xác định tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về nợ chung: Bà M xác định không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà Lê Nguyễn Quỳnh M phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHK14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện về việc "Ly hôn" của nguyên đơn bà Lê Nguyễn Quỳnh M với bị đơn ông Đặng Thành T.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lê Nguyễn Quỳnh M ly hôn với ông Đặng Thành T.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Đặng Lê Uyên N, sinh ngày 18.12.2007 cho bà Lê Nguyễn Quỳnh M trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi), ông Đặng Thành T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Các quyền và nghĩa vụ đối với con chung các bên đương sự thực hiện theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Bà M xác định tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà M xác định không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

5. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) bà Lê Nguyễn Quỳnh M phải chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà M đã nộp theo biên lai thu số 0004329 ngày 04.12.2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Bà M đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình.

Án xử sơ thẩm, bà Lê Nguyễn Quỳnh M được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng ông Đặng Thành T vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc niêm yết) trích sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về