Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 10/04/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 19/2019/TLST-HNGĐ ngày 10/01/2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019; quyết định tạm ngừng phiên tòa số 02/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13/3/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 10/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04/4/2019, giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Anh Nguyễn Duy S, sinh năm: 1980 ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn L, xã X, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm: 1980ĐKHKTT và chỗ ở: Số nhà 01, ngõ 65, đường T, tổ 23, phường Đ,  thành phố B, tỉnh Thái Bình.

 (Anh S vắng mặt, chị T có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*) Tại đơn khởi kiện đề ngày 27/11/2018, lời khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình, thì nguyên đơn là anh Nguyễn Duy S trình bày và có yêu cầu cụ thể như sau:

Anh và chị Phạm Thị T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn ngày 27/4/2015 tại UBND phường Đ, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống cùng gia đình chị T tại địa chỉ: Số nhà 01, ngõ 65, đường T, tổ 23, phường Đ, thành phố B. Trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi chửi nhau, đã nhiều lần vợ chồng nói chuyện để khắc phục mâu thuẫn nhưng không có kết quả mà ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn kinh tế. Mâu thuẫn trở lên đỉnh điểm nên đến tháng 11/2017 vợ chồng ly thân, anh về nhà bố mẹ đẻ tại thôn L, xã X, thành phố B sinh sống đến nay, không ai còn quan tâm đến nhau nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ nên anh đề nghị Tòa án xử cho anh được ly hôn chị Phạm Thị T.

Anh và chị T có 02 con chung là Nguyễn Trung A, sinh ngày 31/12/2013 và Nguyễn Bảo T, sinh ngày 21/02/2015, cả hai con đang ở cùng chị T. Ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao hai con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng vì anh là lái xe khách đường dài nên chưa có đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con, anh có trách nhiệm cấp dưỡng 1.500.000đ/tháng/con cho đến khi con tròn 18 tuổi.

Anh và chị T không có tài sản chung. Không nợ ai tài sản gì, không có tài sản cho người khác vay. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Anh hoàn toàn bác bỏ yêu cầu của chị T buộc anh phải trả 01 chiếc xe máy WaveSX mà chị T cho rằng anh đã cắm và số tiền 200.000.000 đồng mà chị T đã trả nợ hộ anh vì anh không cắm xe và cũng không nợ ai.

*) Bị đơn là chị Phạm Thị T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Duy S tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn ngày27/4/2015 tại UBND phường Đ, thành  phố B, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng phải thuê nhà để ở, sau đó chuyển về sinh sống cùng gia đình chị. Trong quá trình chung sống anh S không có trách nhiệm với vợ con, đua đòi, rượu chè, cờ bạc, nhiều lần chị phải trả nợ cho anh S. Chị đã nhiều lần khuyên bảo để anh S thay đổi, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Năm 2018, anh S có quan hệ bất chính với người khác, chị đã tìm mọi cách ngăn chặn để anh S chấm dứt mối quan hệ này nhưng anh S không nghe mà còn có những lời lẽ xúc phạm chị. Nay anh S xin ly hôn thì chị chỉ đồng ý ly hôn khi anh S trả lại cho chị chiếc xe máy WaveSX của chị, giấy tờ xe mang tên chị và số tiền 200.000.000 đồng chị đã trả nợ cho anh S.

Chị và anh S có 02 con chung là Nguyễn Trung A, sinh ngày 31/12/2013 và Nguyễn Bảo T, sinh ngày 21/02/2015, cả hai con đang ở cùng chị. Ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con, yêu cầu anh S cấp dưỡng 2.000.000đ/tháng/con. Chị kinh doanh hoa quả, thu nhập bình quân mỗi tháng từ 4.000.000đ đến 5.000.000 đồng.

Chị và anh S không có tài sản chung, không nợ ai tài sản gì, không có tài sản cho người khác vay. Chị yêu cầu anh S phải trả lại chị chiếc xe máy WaveSX và số tiền 200.000.000 đồng mà chị đã trả nợ cho anh S, do là vợ chồng nên chị tin tưởng anh S mà đã trả nợ thay cho anh S, chị không có giấy tờ gì về việc trả nợ (những người cho anh S vay tiền là người xã hội đen và bạn hàng của anh S, chị không biết tên tuổi, địa chỉ của họ).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ các đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng nguyên đơn là anh Nguyễn Duy S có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn là là chị Phạm Thị T có mặt. Vì vậy, áp dụng điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử trong trường hợp vắng mặt nguyên đơn, có mặt bị đơn.

 [2] Về nội dung: Hôn nhân giữa anh Nguyễn Duy S và chị Phạm Thị T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi chửi nhau, đã nhiều lần vợ chồng nói chuyện để khắc phục mâu thuẫn nhưng không có kết quả mà ngày càng trầm trọng. Chị T trình bày anh S không có trách nhiệm với vợ con, đua đòi, rượu chè, cờ bạc và từ năm 2018 anh S có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, nhiều lần có những lời nói xúc phạm chị nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 11/2017 đến nay, mỗi người sống một nơi, không còn quan tâm đến nhau. Anh S xin ly hôn, chị T chỉ đồng ý ly hôn khi anh S trả lại chị chiếc xe máy WaveSX và số tiền 200.000.000 đồng, đây không phải là nguyện vọng muốn đoàn tụ với anh S của chị T mà chỉ là yêu cầu của chị T đối với anh S khi vợ chồng ly hôn. Như vậy, mâu thuẫn giữa anh S và chị T là có thật và ngày càng căng thẳng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó cần áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho anh Nguyễn Duy S được ly hôn chị Phạm Thị T là đúng pháp luật.

 [3] Về nuôi con chung: Anh S và chị Thúy có 02 con chung là Nguyễn Trung A, sinh ngày 31/12/2013 và Nguyễn Bảo T, sinh ngày 21/02/2015, cả hai con đang ở cùng chị T. Ly hôn, anh S đề nghị giao cả hai con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, vì anh là lái xe đường dài nên chưa có đủ điều kiện để nuôi con, anh có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con 1.500.000đ/tháng/con. Chị T đề nghị được trực tiếp   nuôi   dưỡng   cả   hai   con,   yêu   cầu anh S cấp dưỡng cho con2.000.000đ/tháng/con (hai con là 4.000.000đ/tháng). Hội đồng xét xử thấy: Do tính chất công việc (là lái xe đường dài) nên anh S không có đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con, chị T có chỗ ở, có thời gian, có thu nhập nên có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, các con ở cùng chị T và có cuộc sống ổn định từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay. Vì vậy, cần giao con Nguyễn Trung A và Nguyễn Bảo T cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh S phải cấp dưỡng nuôi con cho chị T 1.500.000đ/tháng/con (hai con là 3.000.000đ/tháng) kể từ tháng 4/2019 cho đến khi con tròn 18 tuổi là phù hợp quy định tại các điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

 [4] Về tài sản chung: Anh S và chị T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt  ra giải quyết.

 [4.1] Chị T yêu cầu anh S phải trả lại 01 chiếc xe máy Wave RS mà anh S đã cắm xe của chị và số tiền 200.000.000 đồng mà chị T đã trả nợ thay cho anh S, Tòa án đã yêu cầu chị T cung cấp tài liệu chứng cứ và đã ra thông báo nộp tạm ứng án phí nhưng chị T không cung cấp tài liệu chứng cứ, không nộp tạm ứng án phí. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết yêu cầu này của chị T trong vụ án này.

 [5] Về án phí: Anh S phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định. Căn cứ nhận xét trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 147; 203; 235; 227; 228; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điều 26; điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Duy S được ly hôn chị Phạm Thị T.

2.  Về nuôi con chung:  Xử  giao  con  Nguyễn  Trung  A,  sinh  ngày 31/12/2013 và Nguyễn Bảo T, sinh ngày 21/02/2015 cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh S phải cấp dưỡng nuôi con cho chị T 1.500.000đ/tháng/con (hai con là 3.000.000đ/tháng) kể từ tháng 4/2019 cho đến khi con tròn 18 tuổi.

Anh S và chị T có quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng cho con khi cần thiết.

3. Về tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Duy S phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí củangười có nghĩa vụ cấp dưỡng. Chuyển số tiền 300.000 đồng anh S đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu tạm ứng án phí số0007407 ngày 04/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bìnhthành án phí, anh S còn phải nộp tiếp 300.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại  các điều 6,7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị đơn (chị Phạm Thị T) có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/4/2019). Nguyên đơn (anh Nguyễn Duy S) có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 10/04/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về