Bản án 10/2018/HS-ST ngày 16/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 16/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16/3/2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2018/TLST-HS ngày 08/02/2018; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08 /2018/QĐXXST-HS, ngày28 /02/2018, đối với bị cáo: Nguyễn Mạnh H, tên gọi khác: T, sinh ngày 10/8/1990 tại huyện B, tỉnh Q.

Nơi cư trú: Thôn C, xã S, huyện B, tỉnh Q; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1962 và bà Trần Thị Lo, sinh năm 1963. Tiền án: 01 tiền án, Bản án số 37/2016/HSST ngày 27/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 09 tháng tù về tội’ Trộm cắp tài sản”, thi hành án tại Trại giam Đ, chấp hành xong hình phạt ngày 10/12/2016; tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 28/12/2017 cho đến nay, có mặt.

- Người bị hại: 1. Ông Nguyễn Trọng V, sinh năm 1947, nơi cư trú:Thôn C, xã S, huyện B, tỉnh Q, vắng mặt,

-Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:

1.Anh Nguyễn văn H, sinh năm 1980, nơi cư trú: Thôn C, xã S, huyện B, tỉnh Q; vắng mặt;

2.Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1999, nơi cư trú:Thôn C, xã S, huyện B, tỉnh Q; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 04/8/2017 Nguyễn Mạnh H đang có một tiền án chưa được xóa án tích về tội chiếm đoạt tài sản, đi đến nhà anh Nguyễn Văn H ở cùng thôn nhưng không thấy người ở nhà. H quan sát xung quanh thì thấy bên trong nhà tắm ông Nguyễn Trọng V bên cạnh nhà anh H có 01 lồng chim bên trong có 01 con chim Khướu Bạc má màu đen, lông xung quanh cổ màu trắng. H nãy sinh ý định lấy trộm nên thò tay vào bắt con chim đem về nhà cất dấu nhằm bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Sau đó, Nguyễn văn H gọi điện cho H xin lại con chim nếu không sẽ báo Công an. H lo sợ nên đến 19 giờ cùng ngày đem con chim đã lấy trộm đến trả lại cho gia đình ông V. Hội đồng định giá kết luận con chim Khiếu Bạc má mà H lấy trộm của ông V trị giá 1.200.000đ. Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã tạm giữ và xử lý trả lại cho ông Nguyễn Trọng V 01 con chim Khiếu Bạc má.

Trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Trọng V đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm.

Bản Cáo trạng số10/CT-VKS ngày 08/02/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã truy tố Nguyễn Mạnh H về tội”Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Bị cáo Nguyễn Mạnh H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và thừa nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Mạnh H đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b,g,p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam. Vật chứng: Đã trả lại cho người bị hại 01 co chim Khướu Bạc má, không có yêu cầu gì thêm nên không xét. Về  trách nhiệm dân sự: Ông V đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm, nên không xét; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Mạnh H nói lời sau cùng: Đã thấy được hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối lỗi, xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về hành vi của bị cáo, các chứng cứ xác định tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Mạnh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của  bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với lời khai của người bị hại và những người tham gia tố tụng khác và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Nguyễn Mạnh H đã phạm tội“ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã truy tố đối với bị cáo.

[3]Xét tính chất, mức độ, hậu quả  vụ án Hội đồng xét xử thấy rằng: Xuất phát từ động cơ hám lợi và ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo Nguyễn Mạnh H đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của người khác. Bị cáo H có quá trình nhân thân xấu, đã một lần bị kết án, chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết định tội, nên phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi của bị cáo chẳng những xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn ảnh hưởng xấu tình hình an ninh, trật tự ở địa phương; gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng trừng trị, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung về loại tội phạm này.

[4]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không; tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Nguyễn Mạnh H đã  tự nguyện trả lại tài sản bị chiếm đoạt cho người bị hại; tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt không lớn. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự  quy định tại điểm b, g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ.

[5]Về xữ lý vật chứng: Đã trả lại cho ông V con chim Khiếu Bạc má, ông V không có yêu cầu gì thêm nên không xét.

[7]Về trách nhiệm dân sự: Ông V đã nhận lại tài sản, không cóyêu cầu gì thêm, nên không xét.

[8]Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố Nguyễn Mạnh H phạm tội”Trộm cắp tài sản”; Căn cứ khoản 1 Điều 138; điểm b,g,p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999;

- Xử phạt: Nguyễn Mạnh H 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 28/12/2017;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên bố tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Mạnh H thời hạn 45(Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm(16/3/2018) để đảm bảo thi hành án.

2.Về vật chứng vụ án: Đã giải quyết xong nên không xét.

3.Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không xét.

4.Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị  cáo Nguyễn Mạnh H phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án(16/3/2018); người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HS-ST ngày 16/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về