Bản án 10/2018/HSST ngày 06/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 10/2018/HSST NGÀY 06/03/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2018/HSST-QĐ ngày 08/02/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1984, tại An Giang 

Nơi đăng ký HKTT: Ấp L, xãL, huyện T, tỉnh An Giang.

Nơi cư trú: Thôn T, ấp A, xãB, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: bốc vác; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Hòa hảo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Nh (đã chết) vàbàPhạm Thị V(đã chết); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được tại ngoại điều tra (Cómặt).

- Người bị hại: Anh Mộc A S, sinh năm 1983. Địa chỉ: ấp 3, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1990

Anh Nguyễn Thanh C, sinh năm 1964 (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu cótrong hồ sơ vụ án vàdiễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn P vàanh Mộc A S cùng thuêtrọ ở khu nhàtrọ của chị Đinh Thị Thanh T (tại ấp A, xãB, huyện T, tỉnh Đồng Nai). Khoảng 17 giờ ngày 23/7/2017, anh S tìm gặp P ở cuối dãy nhàtrọ để đòi nợ số tiền 3.000.000đ. P cho rằng đó là số tiền P, anh S vàanh Nguyễn Minh T chung vào để đánh bạc dưới hình thức đá gà ăn tiền với một số người khác nhưng người cầm cái đã trốn nên P không cótiền trả. Lúc này giữa P vàanh S xảy ra mâu thuẫn vàcãi nhau, anh S dùng nón bảo hiểm đánh vào đầu P 01 cái thìanh T vàông Nguyễn Thanh C ở cùng khu trọ can ngăn. P đi về phòng trọ của mình thìanh S cầm 01 cây sào phơi đồ dài khoảng 02m đuổi theo đạp cửa xông vào phòng trọ của P. P lấy ở kệ bếp phòng trọ 01 con dao màu đen dài 40cm, bản rộng 07cm chém anh S 01 nhát vào vai trái và 01 nhát vào lưng gây thương tích. Anh S bỏ chạy và được người thân đưa đi cấp cứu điều trị ở Bệnh viện đa khoa Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai đến ngày 27/7/2017 thìxuất viện. Anh S đã làm đơn tố cáo hành vi của Nguyễn Văn P đến Công an xãBắc Sơn. Công an xã Bắc Sơn đã lập hồ sơ cùng vật chứng (01 con dao màu đen dài 40cm, bản rộng 07cm do P giao nộp) chuyển lên Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom giải quyết theo thẩm quyền (bút lục: 38-53).

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0726/GĐPY ngày 19/9/2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Đồng Nai kết luận thương tích của anh S như sau: Vết thương vai trái để lại sẹo kích thước 07x0,4cm vàvết thương lưng để lại sẹo kích thước 07x0,2cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là03% (bút lục số 54-59).

Ngày 02/10/2017, anh S đã làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can để xử lý hành vi nêu trên của Nguyễn Văn P, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đốivới P về tội “Cố ý gây thương tích” để điều tra theo quy định. Quátrình điều tra P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Trách nhiệm dân sự: Anh Mộc A S yêu cầu Nguyễn Văn P bồi thường chiphí điều trị thương tích, tổn thất tinh thần và ngày công lao động tổng số tiền 20.000.000đ nhưng P không cókhả năng bồi thường (bút lục: 84-86).

Tại bản Cáo trạng số 09/CT/VKS-HS, ngày 11/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo phạm tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999. Về tình tiết giảm nhẹ đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo không cótình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xử phạt bị cáo: Từ 05 đến 07 tháng tù nhưng xét cho được hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 14 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phíhình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ vàtài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ýkiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về việc áp dụng pháp luật:

Theo điểm a, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 quy định chỉ áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 để xét xử đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018. Bị cáo Nguyễn Văn P thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 23/7/2017, do đó áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) để xét xử đối với bị cáo.

2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 23/7/2017, tại khu nhàtrọ của chị Đinh Thị Thanh Thúy (thuộc ấp An Chu, xãBắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai), sau khi bị anh Mộc A S dùng nón bảo hiểm đánh vào đầu và dùng cây sào phơi đồ xông vào phòng trọ định đánh bị cáo thìbị cáo Nguyễn Văn P đã có hành vi sử dụng một con dao màu đen dài 40cm, rộng 07cm chém anh Mộc A S một nhát vào vai trái vàmột nhát vào lưng gây thương tích với tỷ lệ thương tật là03%.

Do đó, đã có đủ căn cứ kết luận hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thìthấy: Hành vi phạm tội của bị cáo lànguy hiểm cho xã hội, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ nên cần thiết cách ly bị cáo một thời gian đủ để giáo dục bị cáo thành công dân tốt. Tuy nhiên, người bị hại cũng có một phần lỗi nên cũng cần cân nhắc khi quyết định mức hình phạt cho bị cáo.

[4] Xét nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: bị cáo phạm tội lần đầu vàthuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo không cótình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo.

 [5] Về biện pháp tư pháp:

[5.1] Người bị hại Mộc A S yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền chi phí điều trị thương tích, tổn thất tinh thần và ngày công lao động tổng cộng là 20.000.000đ. Tại phiên tòa, bị cáo cũng đồng ý bồi thường cho anh S số tiền này nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5.2] Về vật chứng vụ án: 01 con dao màu đen dài 40cm, bản rộng 07cm không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015.

 [6] Về án phí:

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phíhình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng án phídân sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự, điểm a vàf khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[7] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom thì thấy cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử. Riêng đối với phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cho bị cáo được hưởng án treo xét thấy chưa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[8] Xét tính hợp pháp của các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy đúng với quy định của pháp luật.Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 104; điểm h, p khoản 1 điều 46; điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

2. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 42 của Bộ luật hình sự, buộc bị cáo Nguyễn Văn P phải bồi thường cho anh Mộc A S số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày anh Mộc A S có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Nguyễn Văn P chậm trả tiền thìcòn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Xử lývật chứng: Căn cứ điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 01 con dao màu đen dài 40cm, bản rộng 07cm (vật chứng hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/01/2018).

4. Về án phí:

Căn cứ điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Nguyễn Văn P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng (một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, người bị hại biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, người có mặt tính từ ngày tuyên án, người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HSST ngày 06/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:10/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về