Bản án 10/2018/HS-ST ngày 05/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 05/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Toà án Nhân dân thị xã Phước Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2018/TLST - HS ngày 03 tháng 01 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 08/2018/QĐXXST – HS ngày 22 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Vũ T (Tên gọi khác: “ M”), sinh năm 1995; Tại: Quảng Trị; Trú tại: Khu phố A, phường L, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Viết Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa:  6/12; Nghề nghiệp: Không; Tiền án: năm 2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xử phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Tiền sự: Không; Cha: Trần Bình K, sinh năm 1963; Meï: Bùi Thị K, sinh năm 1965; Bò cáo có 04 anh, chị, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 1993. Bị cáo là con út trong gia đình và chưa có vợ con. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/11/2017 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại:  Ông Phan Đức L, sinh năm 1962. (vắng mặt)

Địa chỉ: Khu phố 6, phường Long Phước, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Minh H, sinh năm 1976. (vắng mặt)

Địa chỉ: Địa chỉ: Khu phố 6, phường Long Phước, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 06/11/2017, Trần Vũ T một mình đi bộ từ nhà ở khu 6, phường L, thị xã Phước Long ra khu vực Trung Tâm thương Mại Phước Bình ( thuộc khu phố 6, phường Long Phước ). Khi T đi ngang qua nhà anh Phan Đức L, Lê Thị Minh H thì nhìn thấy cổng trước nhà không khóa cửa nên đã nảy sinh ý định vào nhà tìm tài sản lấy trộm đem bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định này T đi vào nhà vợ chồng anh L, chị H thấy chiếc xe mô tô hiệu Sirius, biển kiểm soát 93K1 – 033.81 ( trên xe có sẵn chìa khóa ) nên đã dắt ra ngoài nổ máy rồi chạy về khu vực Nghĩa trang nhân dân ( thuộc khu phố 7, phường L, thị xã Phước Long ) để nhằm mục đích cất giấu. Sau khi đã cất giấu xong, T đi bộ quay về nhà lấy dụng cụ gồm chìa khóa 10, tô vít rồi quay trở lại nơi cất giấu xe, T sử dụng tô vít, chìa khóa 10 để tháo bửng chắn gió, kính chiếu hậu, biển số xe lấy trộm được của anh L ra rồi giấu đi, sau đó Tuấn tiếp tục đi bộ quay trở về  để nhà ngủ.

Đến khoảng 5 giờ ngày 07/11/2017, T đi bộ ra khu vực Nghĩa Trang nhân dân phường Long Phước lấy xe, riêng số phụ tùng gồm biển số, gương chiếu hậu và bửng chắn gió của xe T đem vứt trước cổng nghĩa trang, sau đó T điều khiển xe mô tô lấy trộm được đi vào khu vực phường Thác Mơ, thị xã Phước Long nhằm mục đích tìm nơi tiêu thụ thì bị Cơ quan CSĐT công an thị xã Phước Long phát hiện bắt quả tang, tạm giữ T cùng tang vật chiếc xe mô tô hiệu Sirius.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số: 29 ngày 13/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Phước Long; thì trị giá của chiếc xe mô tô hiệu Sirius, biển kiểm soát 93k1 – 033.81 là 12.950.000 (Mười hai triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Ngày 10/11/2017, Cơ quan CSĐT công an thị xã Phước Long đã quyết định xử lý vật chứng giao trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Phan Đức L.

Tại bản cáo trạng số 03/Ctr - VKS ngày 03 tháng 01 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố bị cáo Trần Vũ T về tội “Trộm cắp tài sản” khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Vũ T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi và trả lại cho bị hại đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điểu 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Vũ T từ 20 tháng đến 24 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Phước Long, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Vũ Tuấn đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố đối với bị cáo, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở khẳng định: Do mục đích tư lợi cá nhân nên vào khoảng 20 giờ ngày 06/11/2017, Trần Vũ T đã lợi dụng sơ hở của gia đình chị Lê Thị Minh H và anh Phan Đức L lén lút lấy trộm của anh Phan Đức L một chiếc xe mô tô hiệu Sirius, biển kiểm soát  93K1- 033.81 trị giá 12.950.000 đồng, đến sáng hôm sau T điều khiển chiếc xe đi tiêu thụ thì bị Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phước Long phát hiện, bắt quả tang.

Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo Trần Vũ T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được luật hình sự bảo vệ. Bị cáo nhận thức được việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Nhưng do mục đích tư lợi cá nhân và muốn có tiền để sử dụng, bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 12.950.000 đồng. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long truy tố bị cáo Trần Vũ T về Tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Xét tính chất, hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra đã làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương, trong thời gian qua tình hình trộm cắp xảy ra trên địa bàn thị xã Phước Long ngày càng nhiều gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Mặt khác, vào năm 2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xử phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo mới chấp hành xong hình phạt (chưa được xóa án tích) nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội nên cần xử bị cáo mức án nghiêm để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 cần xem xét khi lượng hình. Bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Phan Đức L không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4]. Về vật chứng vụ án:

Đối với chiếc chìa khóa 10, chiếc tô vít là công cụ để T tháo phụ tủng xe Sirius, chiếc biển số 93k1 – 033.81, bửng xe và kính chiếu hậu xe của anh L, Cơ quan CSĐT công an thị xã Phước Long đã tiến hành truy tìm nhưng không có kết quả nên HĐXX không đề cập xử lý.

Về quan điểm của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Vũ T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì cáv lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và điểm 1 mục I danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

[2]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Vũ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[3]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Vũ T 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ ngày 07/11/2017.

[4]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Vũ T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HS-ST ngày 05/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về