Bản án 101B/2021/HNGĐ-ST ngày 16/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 101B/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 16 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 25/2021/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 02 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXX-ST ngày 01 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Đỗ Thị H - Sinh năm 1985;

2. Bị đơn: anh Nguyễn Văn Đ - Sinh năm 1983;

Đều trú tại: thôn 3, xã X.S, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn, chị Đỗ Thị H trình bày:

Về hôn nhân: chị và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau do hai bên tự nguyện, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X.Q (nay là xã X.S), huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 06/06/2005. Sau khi kết hôn vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, luôn căng thẳng, nặng nề. Nay chị không thể chịu đựng được nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.

Về con chung: vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Như H, sinh ngày 11/8/2005 và cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 23/11/2008.

Tại phiên tòa, nguyện vọng của chị H khi ly hôn là được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Như H, sinh ngày 11/8/2005; giao cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 23/11/2008 cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản, công nợ: chị H và anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai, quá trình giải quyết và tại phiên Tòa, anh Nguyễn Văn Đ trình bày:

Về hôn nhân: anh Đ công nhận vợ chồng kết hôn với nhau do hai bên tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X.Q (nay là xã X.S), huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ngày 06/06/2005.

Ngày 19/02/2021 cô H có làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn tôi. Tuy nhiên, tôi thấy đang còn tình cảm và yêu thương vợ con nên tôi không đồng ý ly hôn chị H.

Về con chung: vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Như H, sinh ngày 11/8/2005 và cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 23/11/2008. Do tôi không đồng ý ly hôn nên tôi không yêu cầu Tòa án phân chia con cái.

Về tài sản: do tôi không đồng ý ly hôn với cô H nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản trình bày nguyện vọng cũng như tại phiên Tòa đề ngày 30/3/2021, cháu Nguyễn Như H - sinh ngày 11/8/2005 có nguyện vọng được ở với mẹ nếu bố mẹ phải ly hôn; còn cháu Nguyễn Văn T - sinh ngày 23/11/2008 có nguyện vọng được ở với bố nếu bố mẹ phải ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền, tố tụng: Theo đơn khởi kiện, chị Đỗ Thị H yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn, người trực tiếp nuôi con; Bị đơn, anh Nguyễn Văn Đ có địa chỉ cư trú tại xã X.S, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đây là quan hệ pháp luật về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân.

[2]. Về hôn nhân: chị Đỗ Thị H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X.Q (nay là xã X.S), huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 06/06/2005 nên là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Đỗ Thị H, Hội đồng xét xử thấy rằng: quá trình giải quyết vụ án cho thấy, tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn, bởi lẽ tính tình không còn hợp, vợ chồng hay cãi vã lẫn nhau. Anh chị đã sống ly thân nhiều tháng nay. Tuy quá trình giải quyết và tại phiên tòa anh Đ mong muốn vợ chồng Đ tụ để nuôi dạy con cái, phát triển kinh tế gia đình nhưng chị H một mực yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ vì thực tế vợ chồng sống không hạnh phúc, tình cảm đã mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không đạt được nữa. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu của chị H được ly hôn anh Đ.

[3]. Về con chung: chị H và anh Đ có 02 con chung là cháu Nguyễn Như H, sinh ngày 11/8/2005 và cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 23/11/2008.

Xét nguyện vọng của đương sự: chị H muốn được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Như H, sinh ngày 11/8/2005; anh Đ không có ý kiến về trách nhiệm nuôi con. HĐXX thấy cần giao cháu H cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp vì cháu cùng giới tính với chị H. Giao cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng Nguyễn Văn T, sinh ngày 23/11/2008. Hai bên không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho ai.

[4]. Về tài sản và công nợ: hai bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5]. Về án phí: chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28; Điểm a khoản 1 điều 35; Điểm a khoản 1 điều 39; Khoản 4 điều 147; Các Điều 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 1 điều 24; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí tòa án.

- Về hôn nhân: xử cho chị Đỗ Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

Giấy chứng nhận kết hôn ký ngày 06/06/2005 của UBND xã X.Q (nay là xã X.S), huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa cấp cho chị Đỗ Thị H và anh Nguyễn Văn Đ không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: giao cháu Nguyễn Như H, sinh ngày 11/8/2005 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 23/11/2008. Anh Đ và chị H không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác của cơ quan có thẩm quyền.

Chị H và anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về tài sản và công nợ: hai bên đương sự không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về án phí: chị Đỗ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số AA/2019/0006349 ngày 25/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thọ Xuân. Chị H đã nộp đủ.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn và bị đơn. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101B/2021/HNGĐ-ST ngày 16/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:101B/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về