Bản án 101/2020/HNGĐ-ST ngày 18/09/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 101/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 143/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2020, về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/7/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06/8/2020 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 01/2020/TB-TA ngày 19/8/2020, giữa:

- Nguyên đơn: Anh Bùi Trọng Đ, sinh năm 1979.

ĐKHK và nơi cư trú: KDC K, phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1980.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: KDC K, phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang cư trú tại: Đài Loan (Trung Quốc).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, các bản khai - Nguyên đơn anh Bùi Trọng Đ trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Ph kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện C (nay là phường V, thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 26/12/2000. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau. Năm 2005, anh đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), thời gian đầu anh có liên lạc về gia đình nhưng vợ chồng lại xảy ra cãi chửi nhau. Do vậy, kể từ năm 2006 anh không liên lạc về cho chị Ph nữa và chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ năm 2006. Năm 2012 chị Ph cũng sang lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), nhưng vợ chồng không liên lạc với nhau và không sống cùng nhau. Anh xác định vợ chồng sống ly thân từ năm 2005 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Ph.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Bùi Trọng A, sinh ngày 25/12/2000, hiện con đã trưởng thành, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của bà Nguyễn Thị G (mẹ đẻ chị Ph) xác định, chị Ph hiện đang sinh sống và lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), bà không biết địa chỉ cụ thể nên không cung cấp cho Tòa án được. Tuy nhiên chị Ph vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình qua điện thoại. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho chị Ph biết. Chị Ph có quan điểm nhất trí ly hôn. Con chung Bùi Trọng A đã đủ 18 tuổi nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết; tài sản chung không đề nghị Tòa án giải quyết, chị Ph đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Tòa án xác minh tại khu dân cư, đoàn thể, chính quyền địa phương nơi anh Điệp, chị Ph đăng ký kết hôn và cư trú thể hiện: Anh Đ, chị Ph sau khi đăng ký kết hôn được một thời gian thì anh Điệp đi Đài Loan lao động, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không có sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau, sau đó chị Ph sang Đài Loan nhưng vợ chồng không chung sống cùng nhau. Đầu năm 2019, anh Đ về nước còn chị Phương vẫn ở Đài Loan. Nay anh Đ có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để yêu cầu nguyên đơn tiếp tục cung cấp địa chỉ của bị đơn, đến hết thời hạn chuẩn bị xét xử mới đưa vụ án ra giải quyết. Do vậy, Viện kiểm sát không phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn anh Bùi Văn Đ hiện đang sinh sống ở Việt Nam, bị đơn chị Nguyễn Thị Ph nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở KDC Kiệt Đông, phường Văn An, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, hiện đang sinh sống ở Đài Loan (Trung Quốc). Do vậy, TAND tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Đ không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị Ph ở nước ngoài. Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình chị Phương cung cấp địa chỉ, cũng như thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị Ph biết Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa anh Đ và chị nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, mẹ đẻ chị Ph là bà Nguyễn Thị G vẫn thường xuyên liên lạc với chị Ph. Bà G đã nhận các văn bản tố tụng và cam đoan thông báo cho chị Ph biết việc Tòa án giải quyết ly hôn giữa anh Đ với chị Ph. Tuy nhiên chị Ph vắng mặt lần thứ hai và có quan điểm đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Trọng Đ và chị Nguyễn Thị Ph kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện C (nay là phường V, thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 26/12/2000, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì thường xảy ra xô xát, cãi chửi nhau, không có sự tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau. Đến năm 2005 anh Đ đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), thời gian đầu anh còn liên lạc về nhà, từ năm 2006 anh không liên lạc về cho gia đình nữa. Năm 2008, chị Ph sang Đài Loan (Trung Quốc) nhưng vợ chồng cũng không liên lạc và chung sống cùng nhau. Thời gian sống ly thân quá lâu, anh Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn. Chị Ph ở nước ngoài nhưng thông qua gia đình cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên có quan điểm đồng ý ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Đ và chị Ph đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Đ ly hôn chị Ph là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Anh Bùi Trọng Đ và chị Nguyễn Thị Ph có 01 con chung là Bùi Trọng A, sinh ngày 25/12/2000, hiện đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra giải quyết. Sau này các đương sự có yêu cầu giải quyết về tài sản chung của vợ chồng và có đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền thì sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác [3]. Về án phí: Anh Bùi Trọng Đ là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Bùi Trọng Đ ly hôn chị Nguyễn Thị Ph.

2. Về án phí: Anh Bùi Trọng Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình), được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0002695 ngày 05 tháng 6 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Bùi Trọng Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Chị Nguyễn Thị Ph được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2020/HNGĐ-ST ngày 18/09/2020 về ly hôn

Số hiệu:101/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về