Bản án 101/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 101/2019/HSST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2019/TLST- HS ngày ngày 01 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Mai Văn M; sinh năm 1978 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: số M đường M, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mai Văn H và bà: Trần Thị H; tiền án: ngày 06-3-2017 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 21 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày 08-01-2019, chuyển tạm giam ngày 17-01-2019; có mặt.

Người làm chứng: Anh Trần Như Đ, anh Đinh Thái V (không triệu tập tham gia phiên tòa); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 08-01-2019, tổ công tác Công an phường Lộc Hạ thành phố Nam Định kiểm tra hành chính đối với Mai Văn M đang điều khiểnxe máy biển kiểm soát S tại khu vực C quốc lộ H thuộc xã L thành phố N. Quá trình kiểm tra, thu giữ trong túi quần dài bên trái của M 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có 03 gói nhỏ đều chứa chất bột dạng cục màu trắng, M khai là 03 gói Heroine. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa M cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Bản Kết luận giám định số 52/GĐKTHS ngày 14-01-2019 của Phòng Kỹthuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong03 gói nhỏ được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, có tổng khối lượng: 0,242 (không phẩy hai trăm bốn mươi hai) gam.

Tại cơ quan điều tra, Mai Văn M khai: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 08-01-2019, M đi xe máy biển kiểm soát S một mình từ nhà đến khu vực đường Tphường T thành phố N gặp và mua của người đàn ông không rõ lai lịch 03 góiHeroine với số tiền 400.000 đồng rồi cất vào trong túi quần bên trái. Sau đó, Mđiều khiển xe máy đi đến khu vực C quốc lộ H thuộc xã L thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 111/CT-VKSTPNĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Mai Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Mai Văn M khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Mai Văn M không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

 [2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo Mai Văn M phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 08-01-2019, Mai Văn M bị Công an phường Lộc Hạ thành phố Nam Định thu giữ trong túi quần bên trái 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có 03 gói nhỏ đều chứa bột dạng cục màu trắng, M khai là gói Heroine để sử dụng cho bản thân. Bản Kết luận giám định số 52/GĐKTHS ngày 14-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 03 gói nhỏ được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, có tổng khối lượng: 0,242 (không phẩy hai trăm bốn mươi hai) gam. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích sử dụng cho bản thân, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

 [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy và tội phạm. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án bị kết án chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó được hưởng tình tiết giảmnhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. Chiếc xe máy biển kiểm soát S thu giữ của bị cáo, tài liệu điều tra xác định là xe bị cáo mua của anh Nguyễn Hữu M, sinh năm 1973, trú tại L đường L thành phố N nhưng chưa làm thủ tục sang tên; không phải là công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

 [6] Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

 [7] Về án phí: Bị cáo Mai Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Mai Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Mai Văn M 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 08-01-2019.

2. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 52/GĐKTHS; trả lại bị cáo chiếc xe máy biển kiểm soát S nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 28-3-2019).

3. Án phí: Bị cáo Mai Văn M phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Mai Văn M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về