TÒA ÁN NHÂN DÂN thành phố THÁI NGUYÊN - TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 101/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 26 tháng 9 năm 2019 tại hội trường Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến Hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 659/2019/TLST-HNGĐ, ngày 07 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 16 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1987
Địa chỉ: Tổ 10B, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
Bị đơn: Anh Nguyễn Thái H1, sinh năm 1977
ĐKHK: Tổ 10, phường TD, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
Tạm trú: Tổ 10B, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
(Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên toà nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Thái H kết hôn với nhau vào năm 2009 tại UBND phường TD, thành phố TN trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc gì, được hai bên gia đình đồng ý tổ chức cưới hỏi theo phong tục truyền thống.
Lý do chị H xin ly hôn, sau khi cưới vợ chồng về ở chung với bố mẹ chồng tại phường TD và hạnh phúc được thời gian ngắn, đến năm 2012 xảy ra mâu thuẫn bất đồng quan điểm sống do anh H1 không có công việc ổn định, không quan tâm đến vợ con nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, xúc phạm không tôn trọng nhau. Vì vậy, năm 2014 anh, chị đã sống ly thân nhau nhưng sau đó anh H1 có xuống nói chuyện với chị, vì con vợ chồng đã về chung sống với nhau. Đến nay, anh chị vẫn thường xuyên mâu thuẫn và nợ nần nên đã phải bán xe và nhiều tài sản của gia đình để trả nợ cho anh H1. Vì vậy chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được xin được ly hôn để giải phóng cho nhau.
- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Khánh Ch, sinh ngày 12/4/2010 và cháu Nguyễn Thái S, sinh ngày 20/7/2016. Khi ly hôn vì các con còn nhỏ nên chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản chung và nợ chung: Hai vợ chồng không có tài sản chung, không có khoản nợ chung nào. Vì vậy chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị H nhận nộp án phí ly hôn sơ thẩm.
Trong bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, anh Nguyễn Thái H1 khai: Anh xác định thời gian kết hôn và nơi đăng ký kết hôn như chị H trình bày là đúng. Vợ chồng anh đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2009 tại UBND phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện không bị ai ép buộc gì. Sau khi cưới vợ chồng về chung sống với bố mẹ anh tại tổ 10, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên nên có xảy ra mâu thuẫn giữa gia đình anh với chị H nên vợ chồng cũng có cãi vã sô sát. Nay các con cần có sự quan tâm chăm sóc của bố và mẹ nên chị H xin ly hôn đối với anh, anh chưa nhất trí.
- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh có 02 con chung là cháu Nguyễn Khánh Ch, sinh ngày 12/4/2010 và cháu Nguyễn Thái S, sinh ngày 20/7/2016. Nếu chị H cương quyết xin ly hôn anh cũng nhất trí nhưng đề nghị được nuôi cả hai con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.
- Về tài sản chung, nợ chung: Anh H1 xác định vợ chồng không có tài sản chung và cũng không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án nên phải đưa vụ án ra xét xử công khai.
Tại phiên tòa chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và cương quyết ly hôn đối với anh Nguyễn Thái H1, đồng thời đề nghị Tòa án xem xét việc nuôi dưỡng con chung để đảm bảo việc nuôi dưỡng và phát triển của các con.
Anh H1 đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Kết thúc phần hỏi, vị đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền và quan hệ tranh chấp; Thực hiện các hoạt động tố tụng và thời hạn mở phiên tòa theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa xét xử sơ thẩm.
-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Chấp hành đúng quyền, nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015 quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Đề nghị: Chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị H, cho chị H được ly hôn với anh Nguyễn Thái H1. Về con chung, giao chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thái S, sinh ngày 20/7/2016 và anh H1 là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Khánh Ch, sinh ngày 12/4/2010. Về cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu nên không giải quyết. Cha mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung. Về tài sản chung, nợ chung và các khoản cho vay không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên.
[2] Về nội dung: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Thái H1 kết hôn với nhau vào năm 2009 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết tại Ủy ban nhân dân phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên nên được pháp luật thừa nhận là cuộc hôn nhân hợp pháp.
Nguyên nhân dẫn đến vợ chồng ly hôn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ trong cuộc sống dẫn đến không còn tình cảm nên chị H cương quyết xin ly hôn. Hội đồng xét xử thấy thực tế mâu thuẫn vợ chồng đã xảy ra từ năm 2012, đã trầm trọng chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh H1 là phù hợp với thực tế và quy định tại các Điều 51, Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị H, anh H1 có 02 con chung là cháu Nguyễn Khánh Ch, sinh ngày 12/4/2010 và cháu Nguyễn Thái S, sinh ngày 20/7/2016, chị H và anh H1 đều có nguyện vọng đc nuôi dưỡng cả 02 con chung. Xét thấy chị H là kế toán cho công ty TNHH xây dựng và thương mại vân tải Việt Hưng, anh H1 cũng là lái xe của công ty cổ phần xăng dầu gas Cao Bắc Lạng đều có mức thu nhập để đảm bảo cuộc sống, hai người đều mong muốn được nuôi dưỡng chăm sóc con chung, do vậy cần giao mỗi người nuôi một con chung là phù hợp thực tế và Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Tuy nhiên, hiện nay cháu Thái S còn nhỏ, hay đau ốm nên cần giao cháu Thái S cho mẹ nuôi dưỡng và cháu Khánh Ch cho anh H1 nuôi dưỡng để đảm bảo việc chăm sóc và phát triển của các cháu là phù hợp.
Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“ 1. Sau khi ly hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ và quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.
Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung và các khoản cho vay: Chị H, anh H1 xác định không có tài sản chung, không có nợ chung và đều không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Chị H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm
[4] Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Luật thi Hành án dân sự, Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị H cho chị Phạm Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Thái H1.
2. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung. Giao con chung Nguyễn Thái S sinh ngày 20/7/2016 cho chị Phạm Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Giao con chung Nguyễn Khánh Ch, sinh ngày 12/4/2010 cho anh Nguyễn Thái H1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
* Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét giải quyết do đương sự không yêu cầu.
3. Về tài sản chung, nợ chung và các khoản cho vay: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do đương sự không yêu cầu.
4. Án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002061 ngày 07/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.
Chị H, anh H1 có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi nh án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.
Bản án 101/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 101/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về