Bản án 101/2017/DS-ST ngày 07/07/2017 về tranh chấp đòi tiền nợ kéo đường dây điện hạ thế

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 101/2017/DS-ST NGÀY 07/07/2017 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TIỀN NỢ KÉO ĐƯỜNG DÂY ĐIỆN HẠ THẾ

Ngày 07 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 173/2011/TLST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2011 về tranh chấp “Đòi tiền nợ kéo đường dây điện hạ thế” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2017/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 5 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 73/2017/QĐST-DS ngày 21 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T1 (có mặt).

2. Bị đơn: Nguyễn Thị N1 (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Nguyễn Thị T2 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Văn bản ủy quyền ngày 21 tháng 6 năm 2017 – có mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Mai Văn Đ (vắng mặt).

3.2. Nguyễn Thị U (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị U: Ông Nguyễn Văn T1 là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 09 tháng 02 năm 2015 – có mặt).

3.3. Nguyễn Thị T2 (có mặt).

3.4. Ông Lê Ngọc T3 (Lê Văn T3 vắng mặt).

3.5. Chị Trần Thị Bé Hiếu E (Trần Thị Hiểu E vắng mặt).

3.6. Anh Lê Thanh T4 (vắng mặt).

3.7. Chị Lê Thị T5 (vắng mặt).

3.8. Anh Lê Văn S (vắng mặt).

Cùng trú tại: Ấp B, xã M, huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

3.9. y ban nhân dân xã M (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp D, xã M, huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

3.10. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng N2 – Chi nhánh huyện C (vắng mặt).

3.11. Công ty Điện lực V – Chi nhánh huyện C (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Đường Đ, khóm G, thị trấn H, huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 8 năm 2011, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 19 tháng 12 năm 2015 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T1 trình bày:

- Nguyên vào năm 1998 Ủy ban nhân dân huyện C có chủ trương chung, kéo điện thắp sáng cho nhân dân trên địa bàn các xã chưa có điện. Nhà nước hỗ trợ kéo đường dây điện trung thế. Đường dây điện hạ thế và nhánh rẽ do các hộ dân tự đóng góp 30% tiền mặt, còn lại 70% vay vốn Ngân hàng N2 – Chi nhánh huyện C (gọi tắt là Ngân hàng N2) để thanh toán cho Công ty Điện lực V – Chi nhánh huyện C (gọi tắt là Điện lực V).

- Thực hiện chủ trương, từ cuối năm 1998 đến đầu năm 1999, tổ điện số 01 ấp B, xã M được thành lập, do ông Nguyễn Văn T1làm tổ trưởng, gồm 59 hộ dân tham gia kéo 03 tuyến hạ thế, số tiền đóng góp được phân bổ dựa trên chiều dài của từng tuyến, cụ thể như sau:

+ Tuyến bên sông gồm 29 hộ, số tiền hạ thế toàn tuyến 67.686.000 đồng, mỗi hộ tham gia đóng góp số tiền 2.334.000 đồng;

+ Tuyến lộ từ bình điện trung thế đến hộ ông Nguyễn Văn K gồm 15 hộ, số tiền hạ thế toàn tuyến 27.967.500 đồng, mỗi hộ tham gia đóng góp số tiền 1.864.500 đồng;

+ Tuyến lộ từ bình điện trung thế đến hộ ông Đặng Văn N3 gồm 15 hộ, số tiền hạ thế toàn tuyến 26.467.500 đồng, mỗi hộ tham gia đóng góp số tiền 1.764.500 đồng.

Riêng tiền rẽ nhánh và mắc điện kế sinh hoạt từ bình điện hạ thế vào nhà được Điện lực V chiết tính cụ thể cho từng hộ để trực tiếp thanh toán hoặc góp tiền cho tổ điện thanh toán với Điện lực V.

- Trên cơ sở được sự thống nhất của các hộ dân tại cuộc họp, Ủy ban nhân dân xã M chỉ đạo ông T1 dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T1 đại diện tổ điện đứng ra thế chấp vay Ngân hàng N2 số tiền 97.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 01 mã số 931140201 ngày 05/02/1999 (gọi tắt là hợp đồng tín dụng số 01); mục đích vay kéo điện thắp sáng; thời hạn vay 25 tháng; lãi suất trong hạn 1,25%/tháng, lãi suất quá hạn 1,875%/tháng; phương thức trả lãi theo quý, trả vốn thành từng đợt, thời điểm thanh toán cuối cùng vào ngày 10/3/2001. Ngày 06/02/1999 Tổ điện được Ngân hàng N2 giải ngân số tiền 97.000.000 đồng để tất toán hợp đồng xây lắp điện hạ thế kèm theo bảng thanh quyết toán ngày 16/12/1998 cho Điện lực V.

- Vào quý III năm 1999 hộ bà Nguyễn Thị N1 do bà N1 đại diện tham gia kéo đường dây điện hạ thế tuyến bên sông cùng với 28 hộ khác nên hộ bà N1 phải đóng góp kéo điện hạ thế số tiền 2.334.000 đồng. Bà N1 nộp trước số tiền 300.000 đồng, vì vậy hộ bà N1 được phân bổ vay kéo điện hạ thế số tiền 2.034.000 đồng từ hợp đồng tín dụng số 01 để thanh toán cho Điện lực V số tiền 2.334.000 đồng. Riêng chi phí rẽ nhánh và mắc điện kế bà N1 đã thanh toán xong cho Điện lực V số tiền 1.588.688 đồng.

- Thực hiện khoản vay số tiền 2.034.000 đồng:

+ Từ ngày 06/02/1999 đến ngày 30/9/2000 bà N1 góp trả vốn được số tiền 34.000 đồng vào ngày 10/7/1999 và trả lãi được số tiền 375.000 đồng.

+ Do có khiếu nại của 14 hộ dân về việc thu chi của tổ điện, nên bà N1 không tiếp tục góp trả vốn số tiền 2.000.000 đồng và lãi vốn vay phát sinh.

- Vì món tiền vay hợp đồng tín dụng số 01 đã quá hạn và còn 15 hộ, trong đó có hộ ông bà N1 chưa thanh toán nợ vay. Ủy ban nhân dân xã M chỉ đạo bằng lời nói cho ông T1 cộng tiền vốn và lãi của 15 hộ để ông T1 tiếp tục đứng ra vay Ngân hàng N2 số tiền 32.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 63b/HĐTD mã số 211106100002 ngày 15/12/2003 (gọi tắt hợp đồng tín dụng số 63b) để tất toán hợp đồng tín dụng số 01 vào ngày 18/12/2003. Đến hạn thanh toán nợ vay hợp đồng tín dụng số 63b nhưng 15 hộ dân tiếp tục không góp trả vốn và lãi. Vì vậy, ông Mai Văn Đ nguyên trưởng ban nhân dân ấp B chỉ đạo bằng lời nói cho ông T1 tiếp tục cộng tiền vốn và lãi của hợp đồng tín dụng số 63b để ông T1 đứng ra vay Ngân hàng N2 số tiền 37.500.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 03/HĐTD mã số 212106.070002 ngày 19/3/2007 (gọi tắt hợp đồng tín dụng số 03) để tất toán hợp đồng tín dụng số 63b vào ngày 20/3/2007. Trong thời gian này, tổ điện bị thanh tra nên ngày 27/03/2007 ông T1 xuất tiền tất toán toàn bộ hợp đồng tín dụng số 03.

Ông Nguyễn Văn T1 khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị N1cùng các thành viên trong hộ gồm bà Nguyễn Thị T2, ông Lê Ngọc T3 (Lê Văn T3), chị Trần Thị Bé Hiếu E (Trần Thị Hiểu E), anh Lê Thanh T4, chị Lê Thị T5, anh Lê Văn S cùng có trách nhiệm liên đới trả lại số tiền 2.000.000 đồng nợ vốn vay và tiền nợ lãi vốn vay phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 01 mà ông đã thanh toán trả thay cho hộ bà N1 vào ngày 18/12/2003. Ngoài ra, ông T1 còn yêu cầu bà N1, bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S có trách nhiệm trả lãi theo mức lãi suất 0,75%/tháng tính trên số tiền vốn và lãi đã trả thay từ ngày 19/12/2003 đến ngày xét xử sơ thẩm để bù đắp thiệt hại cho ông.

Tại bản tự khai đề ngày 18 tháng 01 năm 2013 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T2, ông Lê Ngọc T3 (Lê Văn T3), chị Trần Thị Bé Hiếu E

(Trần Thị Hiểu E), anh Lê Thanh T4, chị Lê Thị T5, anh Lê Văn S cùng trình bày:

- Vào quý III năm 1999 gia đình bà N1 có tham gia kéo đường điện hạ thế số tiền 2.334.000 đồng. Bà N1 góp trước số tiền 334.000 đồng, thiếu lại số tiền 2.000.000 đồng nhưng không biết đây là số tiền tổ điện phân bổ vay. Sau đó ông T1 đến nhà thu tiền 05 lần, mỗi lần 75.000 đồng, tổng cộng được 375.000 đồng thì không thu nữa.

- Theo yêu cầu khởi kiện của ông T1, gia đình bà N1 đồng ý trả lại ông T1 số tiền nợ vốn 1.625.000 đồng, không đồng ý trả lãi.

Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị U có ông Nguyễn Văn T1 đại diện thống nhất yêu cầu khởi kiện.

- Ủy ban nhân dân xã M, Công ty Điện lực V – Chi nhánh huyện C, Ngân hàng N2 – Chi nhánh huyện C, ông Mai Văn Đ cùng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Tại phiên toà sơ thẩm:

- Ông Nguyễn Văn T1 trình bày:

+ Ông T1 vẫn giữ yêu cầu khởi kiện đòi bà N1, bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S cùng có trách nhiệm liên đới trả lại cho ông và bà U số tiền vốn 2.000.000 đồng đã trả thay.

+ Riêng số tiền lãi phải trả của hộ bà N1 được ông T1 đồng ý tính lại từ ngày 10/7/1999 đến ngày 18/12/2003 tất toán hợp đồng tín dụng số 01, cụ thể như sau:

Tiền lãi trong hạn phát sinh trên số tiền gốc 2.000.000 đồng tính từ ngày ngày 11/7/1999 đến ngày 30/9/2000 là 372.500 đồng;

Tiền lãi trong hạn phát sinh trên số tiền gốc 2.000.000 đồng tính từ ngày ngày 01/10/2000 đến ngày 10/3/2001 là 134.167 đồng;

Tiền lãi quá hạn phát sinh trên số tiền gốc 2.000.000 đồng tính từ ngày ngày 11/3/2001 đến ngày 18/12/2003 là 1.266.250 đồng.

Ông T1 đồng ý khấu trừ vào trong số tiền lãi 375.000 đồng mà bà N1 đã trả từ ngày 10/7/1999 đến ngày 30/9/2000. Do đó, ông T1 yêu cầu bà N1, bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S cùng có trách nhiệm liên đới trả lại cho ông và bà U số tiền lãi 1.397.917 đồng đã trả thay.

+ Ông T1 đồng ý rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc trả lãi theo mức lãi suất 0,75%/tháng được tính trên số tiền 3.397.917 đồng kể từ ngày 19/12/2003 đến ngày xét xử sơ thẩm.

- Bà Nguyễn Thị T2 trình bày: Hộ bà N1 đồng ý trả cho ông T1 và bà U số tiền vốn 2.000.000 đồng nhưng không đồng ý trả lãi số tiền 1.397.917 đồng vì từ ngày 01/10/2000 cho đến ngày 18/12/2003 ông T1 không thu.

- Ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Bình trình bày:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, đưa người tham gia tố tụng trong vụ án đầy đủ, thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ đúng theo quy định tại Điều 26, Điều 93, Điều 94, Điều 95 và Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự; tuy nhiên việc đưa vụ án ra xét xử còn chậm so với thời gian quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 239, Điều 243, Điều 244, Điều 247, Điều 248, Điều 249 và Điều 254 của Bộ luật tố tụng dân về việc xét xử sơ thẩm vụ án, thủ tục khai mạc phiên tòa, tranh tụng tại phiên tòa, công bố các tài liệu, chứng cứ của vụ án tại phiên tòa. Thư ký phiên tòa đã thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, xét các thành viên trong hộ bà N1 thừa nhận vào quý III năm 1999 hộ bà N1 tham gia kéo điện hạ thế số tiền 2.334.000 đồng. Thực hiện nghĩa vụ bà N1 nộp số tiền 334.000 đồng, được phân bổ vay số tiền 2.000.000 đồng và thanh toán tiền lãi từ ngày 10/7/1999 đến ngày 30/9/2000 được số tiền 375.000 đồng thì không trả tiếp vốn và lãi phát sinh. Tại phiên tòa bà T2 đại diện cho bà N1 thừa nhận nợ và đồng ý trả lại ông T1 và bà U số tiền vốn 2.000.000 đồng theo yêu cầu khởi kiện của ông T1 nhưng không đồng ý trả lãi. Xét kể từ ngày 01/10/2000 đến ngày 18/12/2003 hộ bà N1 không thanh toán tiền lãi của khoản vay 2.000.000 đồng.

Đến ngày 18/12/2003 ông T1 tất toán toàn bộ khoản nợ vay kéo điện thắp sáng của hợp đồng tín dụng số 01. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của ông T1 đòi bà N1 và các thành viên trong hộ gồm bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S cùng có trách nhiệm liên đới trả lại số tiền vốn 2.000.000 đồng và số tiền lãi phát sinh từ ngày 01/10/2000 đến ngày 18/12/2003 mà ông Thơi đã trả thay cho hộ bà N1 là có cơ sở phù hợp với quy định tại Điều 256, khoản 2 Điều 107, Điều 290 và Điều 298 của Bộ luật dân sự năm 2005, pháp luật được áp dụng tại thời điểm tranh chấp để chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên, số tiền lãi phát sinh từ ngày 10/7/1999 đến ngày 18/12/2003 cần phải được tính lại cho phù hợp với số tiền gốc thực tế và mức lãi suất được ấn định tại hợp đồng tín dụng số 01 để khấu trừ vào trong số tiền lãi 375.000 đồng bà N1 đã trả.

Những tình tiết, sự kiện không phải phải chứng minh:

Các thành viên trong hộ bà Nguyễn Thị N1 và ông Nguyễn Văn T1 cùng thừa nhận:

- Hộ bà N1 tham gia kéo điện hạ thế tuyến bên sông vào quý III năm 1999 và được phân bổ đóng góp kéo điện hạ thế số tiền 2.334.000 đồng.

- Tính đến ngày 10/7/1999 bà N1 đã góp được số tiền 334.000 đồng nên phân bổ vay số tiền 2.000.000 đồng.

- Từ ngày 10/7/1999 đến ngày 30/9/2000 bà N1 thanh toán được số tiền lãi 375.000 đồng.

- Từ ngày 01/10/2000 đến ngày 18/12/2003 hộ bà N1 không thanh toán nợ gốc số tiền 2.000.000 đồng và lãi phát sinh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo nội dung  khởi kiện của ông Nguyễn Văn T1 và lời trình bày của bà Nguyễn Thị T2 đã đủ cơ sở kết luận quan hệ pháp luật tranh chấp đòi lại tài sản là tiền nợ kéo điện hạ thế, thuộc loại vụ việc tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản được quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Tam Bình theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Xét tại phiên tòa sơ thẩm bà Nguyễn Thị N1 và bà Nguyễn Thị U vắng mặt nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa; ông Mai Văn Đ, Ủy ban nhân dân xã M, Công ty Điện lực V, Ngân hàng N2 đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; ông Lê Ngọc T3 (Lê Văn T3), chị Trần Thị Bé Hiếu E (Trần Thị Hiểu E), anh Lê Thanh T4, chị Lê Thị T5, anh Lê Văn S đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai vắng mặt không có lý do vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Tòa án căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 2 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo thủ tục chung.

[3]. Về yêu cầu khởi kiện:

[4]. Xét tại phiên tòa sơ thẩm ông T1 rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc trả lãi theo mức lãi suất 0,75%/tháng tính trên số tiền 3.397.917 đồng kể từ ngày 19/12/2003 đến ngày xét xử sơ thẩm là hoàn toàn tự nguyện. Tòa án căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện này.

[5]. Đối với yêu cầu trả lại số tiền 2.000.000 đồng nợ vốn vay: Xét lời trình bày của bà Nguyễn Thị T2 đại diện bà Nguyễn Thị N1 thừa nhận hộ bà N1 chưa thanh toán nợ gốc số tiền 2.000.000 đồng, đồng ý trả lại cho ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị U số tiền này. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông T1 đòi hộ bà N1, bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S cùng liên đới trả lại số tiền 2.000.000 đồng nợ vốn vay theo hợp đồng tín dụng số 01 mà ông T1 đã tất toán là có cơ sở.

[6]. Đối với yêu cầu trả lại số tiền 1.397.917 đồng nợ lãi vốn vay: Căn cứ vào các điều khoản thỏa thuận về số tiền vay, thời hạn vay, thời điểm thanh toán vốn vay và lãi suất vốn vay được quy định tại hợp đồng tín dụng số 01. Lời trình bày của ông T1, lời thừa nhận của bà T2 và ý kiến của vị Kiểm sát viên. Đã đủ cơ sở xác định tiền lãi phát sinh trên số tiền 2.000.000 đồng vốn vay của hộ bà N1kể từ ngày 10/7/1999 đến ngày 18/12/2003 tổng cộng số tiền 1.772.917 đồng. Được tính như sau: Tiền lãi trong hạn theo mức lãi suất 1,25%/tháng: (1) từ ngày 10/7/1999 đến ngày 30/9/2000 là 14,9 tháng bằng số tiền 372.500 đồng; (2) từ ngày 01/10/2000 đến ngày 10/3/2001 là 5,36 tháng bằng số tiền 134.167 đồng. Tiền lãi quá hạn tính theo mức lãi suất 1,875%/tháng: Từ ngày 11/3/2001 đến ngày 18/12/2003 là 33,76 tháng bằng số tiền 1.266.250 đồng. Do bà N1 đã thanh toán lãi được số tiền 375.000 đồng nên hộ bà N1 còn nợ lại số tiền lãi 1.397.917 đồng. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của ông T1 đòi hộ bà N1, bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S cùng liên đới trả lại số tiền 1.397.917 đồng nợ lãi vốn vay theo hợp đồng tín dụng số 01 mà ông T1 đã tất toán là có cơ sở.

[7]. Xét hợp đồng tín dụng số 01 chấm dứt vào ngày 18/12/2003. Hộ gia đình bà N1, bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S vi phạm nghĩa thanh toán nợ vay và đã được ông T1 thực hiện thay nghĩa vụ thanh toán. Đến ngày 11 tháng 8 năm 2011 ông T1 kiện đòi lại tài sản. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015: “Giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày Bộ luật này có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 để giải quyết”.

[8]. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 256, khoản 2 Điều 107, Điều 290 và Điều 298 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về quyền đòi lại tài sản, giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình thực hiện nghĩa vụ trả tiền và thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới; ý kiến của Kiểm sát viên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T1. Không chấp nhận lời trình bày của bà T2 đại diện cho bà N1 cho rằng vì ông T1 không thu lãi nên hộ bà N1không đồng ý trả lãi.

[9]. Kể từ ngày người được thi hành án  ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị U có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền phải thi hành án thì người phải thi hành án bà N1, bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S còn phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

[10]. Về án phí dân sự sơ thẩm:

[11]. Xét các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T1 được chấp nhận. Nên bà N1, bà T2, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S phải chịu án phí loại có giá ngạch trên giá trị tài sản tranh chấp dưới 4.000.000 đồng theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 của Pháp lệnh về án phí, lệ phí Toà án năm 2009 kèm theo danh mục mức án phí Toà án.

[12]. Hoàn trả ông T1 nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 256, khoản 2 Điều 107, Điều 290 và Điều 298 của Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 244, khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 2 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Pháp lệnh về án phí, lệ phí Toà án năm 2009, kèm theo danh mục mức án phí, lệ phí Toà án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T1:

1.1. Buộc bà Nguyễn Thị N1, bà Nguyễn Thị T2, ông Lê Ngọc T3 (Lê Văn T3), chị Trần Thị Bé Hiếu E (Trần Thị Hiểu E), anh Lê Thanh T4, chị Lê Thị T5, anh Lê Văn S có trách nhiệm liên đới trả lại cho ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị U số tiền 3.397.917 (Ba triệu ba trăm chín mươi bảy nghìn chín trăm mười bảy) đồng.

1.2. Kể từ ngày người được thi hành án  ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị U có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền 3.397.917 (Ba triệu ba trăm chín mươi bảy nghìn chín trăm mười bảy) đồng thì người phải thi hành án bà Nguyễn Thị N1, bà Nguyễn Thị T2, ông Lê Ngọc T3 (Lê Văn T3), chị Trần Thị Bé Hiếu E (Trần Thị Hiểu E), anh Lê Thanh T4, chị Lê Thị T5, anh Lê Văn S còn phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

1.3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu trả lãi tính trên số tiền 23.397.917 (Ba triệu ba trăm chín mươi bảy nghìn chín trăm mười bảy) đồng theo mức lãi suất 0,75%/tháng kể từ ngày 19/12/2003 đến ngày xét xử sơ thẩm ông Nguyễn Văn T1 đã rút.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

2.1. Buộc bà Nguyễn Thị N1, bà Nguyễn Thị T2, ông Lê Ngọc T3 (Lê Văn T3), chị Trần Thị Bé Hiếu E (Trần Thị Hiểu E), anh Lê Thanh T4, chị Lê Thị T5, anh Lê Văn S phải nộp án phí số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình.

2.2. Hoàn trả ông Nguyễn Văn T1 nhận lại số tiền 50.000 (Năm mươi nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số No 002420 ngày 10 tháng 8 năm 2011 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

4. Vụ án được xét xử công khai. Có mặt nguyên đơn ông Nguyễn Văn T1, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị U; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T2, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị N1. Vắng mặt bị đơn bà Nguyễn Thị N1; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị U, ông Mai Văn Đ, ông Lê Ngọc T3 (Lê Văn T3), chị Trần Thị Bé Hiếu E (Trần Thị Hiểu E), anh Lê Thanh T4, chị Lê Thị T5, anh Lê Văn S, Ủy ban nhân dân xã M, Công ty Điện lực V – Chi nhánh huyện C, Ngân hàng N2 – Chi nhánh huyện C. Báo cho ông T1 và bà T2 có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để tòa án cấp trên xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Riêng bà N1, bà U, ông Đ, ông T3, chị E, anh T4, chị T5, anh S, Ủy ban nhân dân xã M, Công ty Điện lực V – Chi nhánh huyện C, Ngân hàng N2 – Chi nhánh huyện C vắng mặt thì thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

469
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2017/DS-ST ngày 07/07/2017 về tranh chấp đòi tiền nợ kéo đường dây điện hạ thế

Số hiệu:101/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về