Bản án 100/2019/HSST ngày 30/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 100/2019/HSST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30/7/2019 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 103/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1984 tại An Giang; Giới tính: Nam; nơi cư trú: số 8 khu phố D, phường E, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: chạy xe ôm; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Văn H sinh năm 1952 và con bà Nguyễn Kim D sinh năm 1955; có một con sinh năm 2004; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 27/4/2019 (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại:

1. Ông Cao Anh M, sinh năm 1985; địa chỉ: 120A khu phố A, phường Long T, thành phố C, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

2. Ông Lê Thái Q, sinh năm 2000; địa chỉ: 5A/1 đường L, xã O, huyện S, tỉnh Vĩnh Long (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Lê Văn K, sinh năm 1973; địa chỉ: ấp S, xã X, huyện D, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T là người không có việc làm ổn định. Để có tiền trả nợ, T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 7. Cụ thể như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn T đã mang theo 01 (một) đoản thân lục giác đầu dẹp và 01 (một) cơ lê kim loại tay cầm có cán bằng cao su màu xanh đen đi tìm tài sản sơ hở để chiếm đoạt. Vào khoảng 17 giờ 40 phút ngày 24/3/2019, Nguyễn Văn T thuê xe ôm đi từ khu chế xuất Tân Thuận sang đường Lê Văn Lương để chơi. Khi đến trước tiệm bida ACE, địa chỉ 36/21-23 Phạm Văn Nghị, phường Tân Phong, Quận 7, T nhìn thấy 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Nouvo biển số 60B1-751.35 của ông Cao Anh M đang dựng trước cửa, không có người trông coi nên nảy sinh ý định chiếm đoạt để bán lấy tiền tiêu xài. Sau khi trả tiền xe ôm, T bước vào tiệm bida quan sát, thấy không có ai nên T quay ra, dắt bộ xe đi được khoảng 01 mét thì bị ông M phát hiện, truy hô, cùng với bảo vệ Phú Mỹ Hưng bắt quả tang T cùng vật chứng.

Trong quá trình được tại ngoại điều tra, Nguyễn Văn T lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể: khoảng 19 giờ 10 phút ngày 27/4/2019, Nguyễn Văn T chuẩn bị 01 (một) đoãn hình chữ L bằng kim loại màu xám, chiều dài phần thân tay cầm khoảng 12cm, chiều dài phần lưỡi dài khoảng 9cm rồi thuê xe ôm đi từ huyện Bình Chánh đến khu lưu trú công nhân thuộc khu phố 2A, phường Tân Thuận Đông, Quận 7 để tìm cơ hội trộm cắp tài sản, bán lấy tiền tiêu xài. T nhìn thấy xe máy hiệu Wave biển số 64G1-265.81 của ông Lê Thái Q, không người trông coi, T xuống xe đi bộ, dùng bộ dụng cụ phá khóa (đoản) đã chuẩn bị trước bẻ khóa xe. T đề máy xe chạy ra ngoài được một đoạn thì bị bảo vệ phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Về dân sự:

Ngưi bị hại là ông Cao Anh M, ông Lê Thái Q đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 113/CT – VKSQ7 ngày 01/7/2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo khai nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của mình phù hợp với nội dung vụ án được tóm tắt ở trên, không tự bào chữa, không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.

- Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

- Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận 7, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa kết hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ, xét đã có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn T có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 xe máy hiệu Yamaha Nouvo màu trắng, biển số 60B1-751.35 của ông Cao Anh M và 01 xe máy hiệu Wave màu đen bạc, biển số 64G1-265.81 của ông Lê Thái Q. Theo Kết luận định giá tài sản số 84/KL-HĐĐGTTHS ngày 11/4/2019 và Kết luận định giá tài sản số 110/KL-HĐĐGTTHS ngày 16/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự- Ủy ban nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh thì tài sản bị chiếm đoạt có tổng giá trị là 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu đồng). Hành vi này của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 truy tố là đúng người, đúng tội.

Xuất phát từ động cơ tham lam tư lợi, để có tiền tiêu xài bị cáo đã chuẩn bị công cụ để thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi này là rất nghiêm trọng vì đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản sở hữu hợp pháp của công dân. Vì vậy, cần xét xử bằng mức án nghiêm khắc để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: ngày 24/3/2016, bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe máy hiệu Yamaha Nouvo màu trắng, biển số 60B1-751.35 của ông Cao Anh M và tiếp đến ngày 27/4/2017 lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe máy hiệu Wave màu đen bạc, biển số 64G1- 265.81 của ông Lê Thái Q nên thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Xử lý vật chứng vụ án:

- 01 xe máy hiệu Yamaha Nouvo màu trắng, biển số 60B1-751.35, số khung: 117294, số máy: 117295, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã trả lại xe cho người bị hại là ông Cao Anh M, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 xe máy hiệu Wave màu đen bạc, biển số 64G1-265.81, số khung: RLHJA3903HY750673, số máy: JA39E0730845. Qua xác minh, xe do Lê Văn K đứng tên chủ sở hữu. Ông K đưa xe cho ông Lê Thái Q sử dụng làm phương tiện đi lại. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã trả lại xe cho người bị hại là ông Lê Thái Q, nên Hội đồng xét xử không xem xét..

- 01 cây đoản bằng kim loại, thân lục giác, đầu dẹp; 01 tay cầm có thân bằng kim loại, cáng được bọc cao su màu xanh đen; 01 dụng cụ để mở khóa từ, thân được dán băng keo đen; 01 cây đoản hình chữ L bằng kim loại; 01 chìa khóa xe máy hiệu Yamaha, đây là công cụ bị cáo Nguyễn Văn T dùng để thực hiện hành vi phạm tội, không có giá trị sử dụng, nên xét tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6700 màu bạc, đã qua sử dụng. Bị cáo Nguyễn Văn T không dùng làm công cụ phương tiện phạm tội, nên xét trả lại cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ngưi bị hại là ông Cao Anh M, ông Lê Thái Q đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 27/04/2019.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 01 cây đoản bằng kim loại, thân lục giác, đầu dẹp; 01 tay cầm có thân bằng kim loại, cáng được bọc cao su màu xanh đen; 01 dụng cụ để mở khóa từ, thân được dán băng keo đen; 01 cây đoản hình chữ L bằng kim loại; 01 chìa khóa xe máy hiệu Yamaha.

- Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6700 màu bạc, đã qua sử dụng cho bị cáo Nguyễn Văn T.

(theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 7).

3. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015: Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Đi với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HSST ngày 30/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:100/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về