Bản án 100/2019/HS-ST ngày 24/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 100/2019/HS-ST NGÀY 24/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 105/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 05 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Thế A, sinh ngày 14 tháng 9 năm 1978 tại Thái Bình; nơi cư trú: Phường B, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn L (đã chết) và bà: Nguyễn Thị L1, sinh năm 1949; có vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1992 và chưa có con; tiền án: Bản án số 104/2016/HSST ngày 16/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xử phạt Vũ Thế A 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2019 đến ngày 23/3/2019 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình đến nay; có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Ông Lê Công Đ, sinh năm 1952; nơi cư trú: Số nhà 15/14, tổ 26, phường B, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt.

2. Ông Vũ Công Th, sinh năm 1954; nơi cư trú: Phường B, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt.

3. Ông Lê Thanh B1, sinh năm 1973; nơi cư trú: Phường B, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nôi dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua tố giác của quần chúng nhân dân về việc Vũ Thế A có biểu hiện hoạt động phạm tội về ma túy. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 20 tháng 3 năm 2019 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phối hợp với Công an phường Bồ Xuyên thành phố Thái Bình triệu tập Vũ Thế A đến Công an phường Bồ Xuyên để làm việc. Khi làm việc, trước sự chứng kiến của ông Vũ Công Th và ông Lê Thanh B1, Vũ Thế A đã tự giác khai nhận: Vào ngày 16 tháng 3 năm 2019, Vũ Thế A sang thành phố N, tỉnh Nam Định gặp một người nam giới khoảng 40 tuổi tên L2 (không rõ năm sinh và địa chỉ ở đâu), mua của người này 22.000.000 đồng được 01 túi ma túy đá và được người này cho một số túi nilon trong suốt. Sau đó Thế A mang về nhà lấy một ít ra sử dụng, số còn lại cất giấu trên phòng ngủ ở trên tầng hai mục đích để sử dụng dần. Công an tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản sự việc về nội dung trên.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Thế A thu trong hộp tăm để trên bàn uống nước trong phòng ngủ 01 túi nilon trong suốt, bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt (niêm phong trong phong bì ký hiệu M1); thu tại nóc tủ quần áo 01 túi nilon màu đen, bên trong có 01 túi nilon trong suốt chứa các hạt tinh thể trong suốt (niêm phong trong phong bì ký hiệu M2); 01 cóng thủ tinh, một số túi nilon trong suốt; 01 cân điện tử và 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế.

Tại bản kết luận giám định số 81/KLGĐ – PC09 ngày 21/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,3528 gam; Mẫu M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 33,3160 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Thế A không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số 113/CT-VKSTPTB ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Vũ Thế A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Thế A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

* Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mưc an tư 11 năm tù đến 12 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 20 tháng 3 năm 2019.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo tàng trữ ma túy khối lượng lớn nên áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy được niêm phong trong 02 (hai) phong bì số 81/KL-GĐ chứa ma túy, mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 cóng thủy tinh; 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế; 01 cân điện tử; một số túi nilon trong suốt.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 20 tháng 3 năm 2019, qua khám xét chỗ ở của Vũ Thế A tại phường B, thành phố Th, Công an tỉnh Thái Bình phát hiện và thu giữ 02 túi ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 33,6688 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của bị cáo phù hợp với nhau và còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản sự việc do Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 12 giờ 00 phút ngày 20 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Công an phường B, thành phố Th; biên bản khám xét; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập ngày 20 tháng 3 năm 2019; bản kết luận giám định số 81/KLGĐ-PC09 ngày 21 tháng 3 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai người chứng kiến ông Lê Công Đ, ông Vũ Công Th và ông Lê Thanh B1; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

b) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam.

...”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Vũ Thế A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vũ Thế A có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy khối lượng lớn nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Vũ Thế A 33,5113 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong 02 phong bì số 81/KLGĐ-PC09 là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7.2] Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Vũ Thế A 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế; 01 cóng thủy tinh; một số túi nilon trong suốt là công cụ dùng vào việc phạm tội và 01 cân điện tử không sử dụng được, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Vũ Thế A khai sang thành phố N, tỉnh Nam Định mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi tên L2(không rõ năm sinh và địa chỉ ở đâu) nên Công an tỉnh Thái Bình không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Thế A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Thế A 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 20 tháng 3 năm 2019.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo 7.000.000 (bảy) triệu đồng để nộp ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy được niêm phong trong 02 phong bì số 81/KLGĐ chứa ma túy, mẫu vật hoàn lại sau giám định.

3.2. Tịch thu tiêu hủy 01 cân điện tử; 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế; 01 cóng thủy tinh; một số túi nilon trong suốt.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 29 tháng 5 năm 2019).

4. Về án phí: Bị cáo Vũ Thế A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 24 tháng 6 năm 2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HS-ST ngày 24/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về