Bản án 100/2019/HSST ngày 19/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 100/2019/HSST NGÀY 19/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/7/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 90/2019/TLST-HS ngày 31/5/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2019/QĐXXST-HS ngày 08/7/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Sùng A M, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1981, tại Sơn La. Nơi cư trú: Đội 1, xã H, huyện Đ, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Sùng A D ( đã chết) và bà: Lầu Thị M, sinh năm 1924; có vợ: Hờ Thị C, sinh năm 1981 và 07 con, con lớn sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo chưa có án tích, không bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 18/02/2019 cho đến nay. "có mặt".

Người bào chữa cho bị cáo là ông: Ông Đỗ Xuân T - Luật sư cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ ngày 18/02/2019, bị cáo đi xe mô tô BKS 27B1-158.53 từ nhà ở đội 1, xã H, huyện Đ ra khu vực cột mốc biên giới số 97 thuộc xã H với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Tại lán nương không có người ở bị cáo gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Lào khoảng 40 tuổi (không biết tên và địa chỉ) 01 gói Heroine và 28 viên hồng phiến với giá tiền là 4.000.000đ. Bị cáo về nhà cất số ma túy vào túi quần bên trái đang mặc và nghỉ ngơi ở lán nương. Khoảng 18 giờ cùng ngày, bị cáo đi xe mô tô về nhà. Hồi 19 giờ cùng ngày, khi bị cáo đến khu vực cột mốc 97 thì bị tổ công tác đồn Biên Phòng M phối hợp với đồn Biên Phòng T và Công an xã H phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng là 01 gói Heroine, 28 viên hồng phiến và 01 xe mô tô BKS 27B1-158.53.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 19/02/2019 đã xác định:

- Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 40,1 gam;

- 28 viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 2,9 gam.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 293/GĐ-PC09 ngày 28/02/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng được trích từ vật chứng thu giữ của Sùng A M gửi giám định là Heroine;

- Mẫu viên nén màu hồng được trích từ vật chứng thu giữ của Sùng A M gửi giám định là Methamphetamine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 87/CT-VKSHĐB ngày 30/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Sùng A M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249/BLHS, điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS; Đề nghị xử phạt bị cáo từ 10 năm 06 tháng đến 11 năm tù. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng. Bị cáo thuộc hộ nghèo được miễn bộ án phí HSST.

- Ý kiến Luật sư:

Bị cáo thành khẩn khai báo, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo thuộc hộ nghèo, bị cáo là trụ cột trong gia đình nên đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được xử mức thấp nhất của khung hình phạt.

- Ý kiến VKS: Vẫn giữ nguyên quan điểm, mức hình phạt như trên đối với bị cáo đã cân nhắc, xem xét là phù hợp.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi xin Hội đồng xét xử xem xét cho tôi xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 18/02/2019, bị cáo bị bắt quả tang khi đang cất giấu 01 gói Heroine và 28 viên Methamphetamine trong túi quần đang mặc có tổng khối lượng 43 gam với mục đích là để sử dụng. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội của tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là rất nghiêm trọng, nên cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian.

[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Lào khoảng 40 tuổi đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên và địa chỉ, nên CQĐT không có cơ sở để xác minh làm rõ được.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, nhưng bị cáo là người dân tộc thiểu số hiện đang cư trú tại xã H, huyện Đ thuộc xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017 của chính phủ và có đơn xin miễn án phí HSST. Căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo được miễn án phí HSST.

[8]. Vật chứng: 40,1 gam Heroine và 2,9 gam Methamphetamine; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy mang tên Lý Giống Lầu, số 018835 và 01 biển số xe máy BKS 27B1-158.53 là vật chứng của vụ án cần bị tịch thu tiêu hủy; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu FIGO, loại xe Win màu đen; số khung: CHGUM6B002238; số máy: VZS152FMH042238 theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS:

1.Tuyên bố: Bị cáo Sùng A M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Sùng A M 10 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày (18/02/2019).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136/BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo được miễn án phí HSST.

4. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 40,1 gam Heroine, gửi giám định 0,87 gam; 2,9 gam Methamphetamine, gửi giám định 0,21 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định); 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy mang tên Lý Giống Lầu, số 018835 và 01 biển số xe máy BKS 27B1-158.53; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu FIGO, loại xe Win màu đen; số khung: CHGUM6B002238; số máy: VZS152FMH042238.

(Vật chứng đã được công an huyện Điện Biên chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 31/5/2019).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HSST ngày 19/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về