Bản án 100/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A 

BẢN ÁN 100/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN

Ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 229/2019/TLST-HNGĐ ngày 29/5/2019 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/8/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 128/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Lê Thị Bích T, sinh năm 1999 (có mặt).

Địa chỉ: tổ 15, ấp M, xã M, thành phố L, tỉnh A .

2. Bị đơn: ông La Ngọc P , sinh năm 1996 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp Đ, xã V, huyện T, tỉnh A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 09/7/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị Bích T trình bày: bà T và ông La Ngọc P tìm hiểu rồi tiến đến hôn nhân vào năm 2017, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố L, tỉnh A và được Ủy ban nhân dân xã M cấp giấy chứng nhận kết hôn số 109, ngày 10/8/2017. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc và sinh được một con chung tên La Ngọc Yến V, sinh ngày 12/12/2017. Tuy nhiên, chung sống được một thời gian ngắn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do ông P không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, không quan tâm gì tới vợ và con. Bà T có khuyên ông P tìm việc làm để kiếm thêm thu nhập cho gia đình thì ông P có đi làm thuê vài nơi nhưng cũng không được bao lâu thì nghỉ làm. Vì thương chồng và cũng muốn duy trì hạnh phúc gia đình nên bà T đã nhiều lần khuyên ông P tìm việc làm ổn định để chăm lo cho gia đình nhưng ông P không thực hiện. Mỗi lần vợ chồng phát sinh mâu thuẫn thì ông P đập đồ đạc trong nhà, rồi bỏ nhà đi đâu không rõ, có khi ông P bỏ đi gần nửa tháng mới về nhà. Đến tháng 12 năm 2018 thì mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên ông P đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống.

sau:

Nay mâu thuẫn vợ chồng gay gắt nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết như - Về hôn nhân: bà T yêu cầu được ly hôn với ông La Ngọc P .

- Về con chung: bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn ông La Ngọc P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông P.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến việc giải quyết vụ án: Thẩm phán xác định đúng quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết. Quá trình tiến hành tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng; riêng bị đơn ông La Ngọc P đã được triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt nên xem như từ bỏ quyền của mình. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: qua xem xét toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về hôn nhân: bà Lê Thị Bích T được ly hôn với ông La Ngọc P ;

- Về con chung: giao con chung tên La Ngọc Yến V cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông P không cấp dưỡng nuôi con;

- Về tài sản chung và nợ chung: không có;

- Về án phí: bà T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông La Ngọc P đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Đ, xã V, huyện T, tỉnh A, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông La Ngọc P đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, các lần triệu tập, ông P đều vắng mặt. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông P.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về hôn nhân: bà Lê Thị Bích T với ông La Ngọc P chung sống với nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố L, tỉnh A cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 109, ngày 10/8/2017. Vì vậy, quan hệ hôn nhân của ông, bà phù hợp với quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng.

[3.2] Xét, yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Bích T thấy rằng, bà T với ông P chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Sau đó thì xảy ra mâu thuẫn, bà T cho rằng ông P không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, không quan tâm đến vợ, con nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt và đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2018 cho đến nay.

[3.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của bà T và ông P. Qua xác minh, được chính quyền địa phương cung cấp như sau: Sau khi cưới nhau, ông P và bà T chung sống tại xã M, thành phố L. Trong quá trình chung sống, ông P và bà T có xảy ra mâu thuẫn nên ông P quay về sống tại ấp Đ, xã V, huyện T, tỉnh A. Hiện nay ông P đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương.

[3.4] Xét thấy, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn ông La Ngọc P , tạo điều kiện cho bà T và ông P hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, ông P không đến tham gia các phiên hòa giải và cũng không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được chung sống với bà T. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa bà T với ông P mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Bích T.

[4] Về quan hệ con chung: bà T và ông P có 01 con chung tên La Ngọc Yến V, sinh ngày 12/12/2017. Bà T yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu V đang sống với mẹ và dưới 36 tháng tuổi nên rất cần sự chăm sóc chu đáo của người mẹ. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của cháu V, căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của bà T; giao cháu V cho bà T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà T không yêu cầu ông Pcấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Bà T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có.

[6] Về án phí: do bà Lê Thị Bích T yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 9, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Bích T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: bà Lê Thị Bích T được ly hôn với ông La Ngọc P .

Giấy chứng nhận kết hôn số 109, ngày 10/8/2017 của Ủy ban nhân dân xã M, thành phố L, tỉnh A không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về quan hệ con chung: bà T với ông P có 01 con chung tên La Ngọc Yến V, sinh ngày 12/12/2017.

- Giao cháu La Ngọc Yến V cho bà Lê Thị Bích T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (cháu V sống chung với bà T). Bà Lê Thị Bích T không yêu cầu ông La Ngọc P cấp dưỡng nuôi con.

- Bà Lê Thị Bích T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông La Ngọc P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

1.3. Về quan hệ tài sản: không có.

1.4. Về nợ chung: ghi nhận bà Lê Thị Bích T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà T và ông Pvẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: bà Lê Thị Bích T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000215 ngày 29/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh A (bà T đã nộp xong).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

Số hiệu:100/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về