Bản án 100/2019/DS-ST ngày 13/05/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 100/2019/DS-ST NGÀY 13/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 13 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 107/2019/TLST-DS ngày 19 tháng 3 năm 2019 về “tranh chấp hợp đồng góp hụi” Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2019/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Võ Thị D1 (tên thường gọi là TT), sinh năm 1966;

Cư trú: ấp Hòa Bình, xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang.

Đại diện ủy quyền: Nguyễn Minh Hoàng H, sinh năm 1972 (Theo văn bản ủy quyền ngày 11/01/2019)

Cư trú: số 15, khu phố 4, phường 10, thành phố Mỹ Tho, Tiền Giang

* Bị đơn:

Dương Thị P, sinh năm 1970;

Ngô Tấn D2, sinh năm 1976;

Cùng cư trú: ấp Hòa Bình, xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang (Chị H, chị P có mặt; anh D2 vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải đại diện ủy quyền nguyên đơn chị Hoàng H trình bày:

Năm 2017, chị Võ Thị D1 có tham gia chơi 03 dây hụi do vợ chồng chị Dương Thị P và anh Ngô Tấn D2 làm chủ, cụ thể như sau:

Dây thứ nhất: Hụi 300.000đồng, khui mỗi tuần một lần, hụi khui ngày 15/02/2017 âm lịch, hụi gồm 84 phần, chị D1 tham gia 04 phần. Dây hụi này chị D1 đã hốt 02 phần còn lại 02 phần hụi sống, chị đã đóng đầy đủ hụi đến lần khui 72, đến lần khui 73, chị D1 hốt nhưng vợ chồng chị P không giao hụi. Sau khi bể hụi chị P có trả được 4.000.000đồng và trừ 10 kỳ của hai phần hụi chị đã hốt là 3.000.000đồng. Chị D1 chỉ đòi lại số tiền mà chị đã đóng, cụ thể vợ chồng chị Png, anh D2 còn nợ số tiền 22.600.000đồng – 7.000.000đồng = 15.600.000đồng.

Dây hụi thứ hai: Hụi 500.000đồng, hụi nữa tháng khui một lần, khui vào ngày 10/4/2017 âm lịch, hụi gồm 40 phần, chị D1 tham gia 03 phần, chị đã đóng được 31 kỳ thì bể hụi. Chị D1 đã đóng hụi sống cụ thể: 02 kỳ x 400.000đồng x 03 phần = 2.400.000đồng và 29 kỳ x 350.000đồng x 03 phần = 30.450.000đồng, tổng cộng là 32.850.000đồng.

Dây hụi thứ ba: Hụi 300.000đồng, khui mỗi tuần một lần, khui vào ngày 27/6/2017 âm lịch, gồm 69 phần. Chị D1 đóng được 54 kỳ thì bể hụi không chơi nữa, cụ thể chị D1 đã đóng 02 kỳ x 250.000đồng x 02 phần = 1.000.000đồng và 52 kỳ x 160.000đồng x 02 phần = 16.640.000đồng, tổng cộng 17.640.000đồng.

Tổng cộng 03 dây hụi vợ chồng chị P, anh D2 nợ số tiền 66.090.000đồng, sau đó có trả được 3.000.000đồng, còn nợ 63.090.000đồng.

Nay, chị D1 yêu cầu vợ chồng chị P, anh D2 trả số tiền nợ hụi 63.090.000đồng làm một lần khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu tính lãi.

Đối với anh Ngô Tấn D2 là chồng chị P không trực tiếp tham gia chơi hụi nhưng anh chị sống chung nhà và biết chị P, chị D1 có tham gia chơi hụi với nhau, mỗi lần chị D1 đến đòi nợ thì anh D2 hẹn sẽ trả đủ cho các hụi viên và tiền hoa hồng chơi hụi chị P cũng phục vụ cho cuộc sống gia đình nên chị D1 yêu cầu anh D2 cùng có trách nhiệm trả nợ.

* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải bị đơn chị P trình bày:

Tên chị theo giấy tờ là Dương Thị P, tên thường gọi là Dương Kim P, chị D1 và anh Ngô Tấn D2 là vợ chồng hiện đang sống chung với nhau. Chị thừa nhận có tham gia làm thảo hụi của 03 dây hụi như lời trình bày của đại diện ủy quyền nguyên đơn. Chị thừa nhận còn nợ chị D1 số tiền 66.090.000đồng, sau đó chị có trả được 3.000.000đồng nên còn nợ 63.090.000đồng. Nay, chị đồng ý trả số tiền 63.090.000đồng nhưng do hoàn cảnh khó khăn, chị bị bể hụi phải trả nợ cho nhiều người nên xin trả dần mỗi tháng 1.000.000đồng cho đến khi hết nợ.

Đối với anh D2 không có tham gia chơi hụi nhưng anh biết chị chơi hụi, khi các hụi viên đến đòi thì anh cũng có hứa sẽ trả và phụ cùng chị để trả góp cho các hụi viên.

* Tại bản tự khai anh Ngô Tấn D2 trình bày:

Vào năm 2017 âm lịch, vợ anh là chị Dương Thị P có rủ mấy chị em ở xóm góp vốn chơi hụi, lúc đầu chơi một dây, sau đó thấy hụi bỏ cao có lời nhiều tay em mới kiêu gầy thêm hai dây nữa do vợ anh làm thảo hụi. Anh chỉ biết mỗi tuần khui hụi là tay em đến nhà bỏ hụi, tuần nào cũng vậy. Sau này dây hụi nào cũng gần mãn chỉ còn vài phần thì tay em tranh nhau bỏ hụi. Anh nghe nói hụi tuần 300.000đồng mà bỏ tới 250.000đồng, rồi 270.000đồng đến lúc 290.000đồng nên vợ anh mới đứng hụi không gôm hụi sống nữa. Vì hụi bỏ cao tay em hốt không có tiền, lỗ quá nên đóng không nổi, năn nỉ để trả từ từ. Anh cũng kêu vợ ráng làm trả cho người ta. Mấy người tay em thấy vợ anh bị giựt hụi, lớp người ta xin trả từ từ. Mấy tay em đều cho vợ anh trả mỗi tuần 200.000đồng chỉ riêng bà Võ Thị D1 bắt vợ anh phải trả một lần, anh xin quý Tòa xem xét.

Ngày 18/4/2014, anh có đơn xin vắng mặt phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử.

Tại phiên tòa, các đương sự vẫn trình bày và yêu cầu như nêu trên.

* Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ kiện: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 471, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015, Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra cũng như tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Ngô Tấn D2 có đơn xin vắng mặt phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh D2.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa chị Võ Thị D1 và chị Dương Thị P, anh Ngô Tấn D2 là tranh chấp hợp đồng góp hụi được xem xét giải quyết theo Điều 471 Bộ luật dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định Điều 26, 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đại diện ủy quyền nguyên đơn chị Hoàng H yêu cầu vợ chồng chị Dương Thị P, anh Ngô Tấn D2 trả cho chị Võ Thị D1 số tiền nợ hụi 63.090.000đồng làm một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật, chứng cứ là danh sách chơi hụi của 03 dây hụi do chị P ký tên. Tại biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa chị P thừa nhận có làm thảo hụi, chị D1 có tham gia 03 dây hụi và có nợ số tiền 63.090.000đồng như lời trình bày của đại diện ủy quyền nguyên đơn nhưng do hoàn cảnh khó khăn, các dây hụi bị bể, chị phải trả nợ nhiều người nên không có khả năng trả một lần, chị xin trả dần mỗi tháng 1.000.000đồng cho đến khi hết nợ, yêu cầu xin trả dần không được đại diện ủy quyền nguyên đơn đồng ý. Do đó, yêu cầu của chị D1 là hoàn toàn có căn cứ.

Đối với yêu cầu anh Ngô Tấn D2 cùng chị Dương Thị P có nghĩa vụ trả số tiền 63.090.000đồng, là có cơ sở bởi lẽ, anh D2, chị Phụng là vợ chồng có đăng ký kết hôn được Uỷ ban nhân dân xã Hòa Tịnh cấp giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 01 ngày 9/5/2014 nên anh chị là vợ chồng hợp pháp, tại bản tự khai ngày 10/4/2019, anh D2 cho rằng anh biết rõ việc chị D1, chị P có tham gia chơi hụi do chị P làm chủ hụi và biết chị P còn nợ chị D1 số tiền hụi nêu trên. Tại phiên tòa, chị P cho rằng, anh D2 biết chị làm chủ hụi, khi các hụi viên đến đòi thì anh cũng có hứa sẽ trả và phụ cùng chị để trả góp nợ hụi cho các hụi viên, số tiền hoa hồng từ việc chơi hụi là để phục vụ cuộc sống gia đình, có thêm thu nhập, lo con ăn học. Như vậy, chị Võ Thị D1 yêu cầu anh Ngô Tấn D2, chị Dương Thị P cùng trả số tiền nợ hụi nêu trên là có cơ sở phù hợp với Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình.

Từ phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Võ Thị D1 buộc anh Ngô Tấn D2, chị Dương Thị P có nghĩa vụ trả số tiền nợ hụi 63.090.000đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật là phù hợp với Điều 21 và Điều 22 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên chị Phụng, anh Dũng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 471, 357 Bộ luật dân sự;

- Áp dụng nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị D1 Buộc chị Dương Thị P, anh Ngô Tấn D2 có nghĩa vụ trả cho chị Võ Thị D1 số tiền 63.090.000đồng (Sáu mươi ba triệu không trăm chín mươi ngàn đồng). Thời gian trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp chị P, anh D2 chậm trả số tiền nêu trên thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả với lãi suất theo thỏa thuận của các bên nhưng không vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự; nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

* Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Chị Dương Thị P, anh Ngô Tấn D2 phải chịu số tiền 3.154.500đồng án phí dân sự sơ thẩm.

+ Hoàn lại cho chị Võ Thị D1 số tiền tạm ứng án phí 1.652.000đồng theo biên lai thu số 0015821 ngày 19/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm, đối với anh D2 kháng cáo tính từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/DS-ST ngày 13/05/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:100/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về