Bản án 100/2018/HS-ST ngày 10/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 100/2018/HS-ST NGÀY 10/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở TAND thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2018/HSST ngày 28 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2018/QĐXXST-HS ngày 13/7/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Thân Văn Đ, sinh năm 1999. Tên gọi khác: Không; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Q, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hóa: 12/12; con ông: Thân Văn S, sinh năm 1973 và bà Đào Thị T, sinh năm 1976; gia đình có hai chị em, bị cáo là con thứ 2; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự, nhân thân: Chưa có; bị cáo bị bắt quả tang và bị tạm giữ từ ngày 15/3/2018 đến ngày 24/3/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên toà).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Đào Thị T, sinh năm 1976 (Có mặt).

Địa chỉ: thôn Q, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang

2. Anh Phạm Mai Đ, sinh năm 1973 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số 67C, đường Nguyễn Công H, phường Trần Nguyên H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

* Người làm chứng:

1. Anh Dương Văn N, sinh năm 1996 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

2. Anh Lò Văn D, sinh năm 1999 (Vắng mặt);

Địa chỉ: thôn Q, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

3. Anh Lương Văn T, sinh năm 1983 (Vắng mặt); Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 15 phút, ngày 15/03/2018, tại khu vực trước cửa quán tạp hóa C, đường V, thôn Đ, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; tổ tuần tra kiểm soát Đội cảnh sát 113, phòng PC 64, Công an tỉnh Bắc Giang, tiến hành kiểm tra bắt quả tang đối tượng: Thân Văn Đ, sinh năm 1999, trú quán: thôn Q, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

- 02 túi ni lon mầu trắng, trên một đầu của mỗi túi ni lông đều có rãnh khóa bằng nhựa, trong đó: 01 túi ni lon đựng 02 viên nén hình tròn mầu hồng đỏ trên mặt của mỗi viên có chữ WY, nghi là ma túy tổng hợp dạng ngựa và 01 túi ni lon đựng chất tinh thể mầu trắng, nghi là ma túy tổng hợp dạng đá. Thu giữ tại lòng bàn tay trái của Đ đang cầm. Tất cả được cho vào 01 phong bì thư được niêm phong dán kín tại chỗ.

- Thu giữ của Đ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave ZX màu trắng đen, không mang biển kiểm soát; 01 gậy ba khúc bằng kim loại; 01 cuộn giấy bạc; 01 túi ống hút bằng nhựa; 02 chiếc điện thoại Iphone 6 đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen bên trong đựng 2.400.000 đồng.

Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng nghi ma tuý vào 01 phong bì thư, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển vật chứng cùng tài liệu liên quan đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B giải quyết

Kết luận giám định số 350/KL-PC54 ngày 21/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

- Tinh thể mầu trắng đựng trong 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,706 gam.

- 02 viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên mặt của mỗi viên đều có chữ “WY” đựng trong 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa đều là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,187 gam.

Quá trình điều tra Thân Văn Đ khai nhận: Khoảng 18 giờ, ngày 15/3/2018, Thân Văn Đ, Dương Văn N và Lò Văn D là bạn mới quen đi ăn cùng nhau tại quán ăn ở Km số 8, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Sau khi ăn xong, Đ nảy sinh ý định mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đ bảo N và D đi đến khu vực cây xăng T, thành phố B, tìm quán Karaoke để hát. Một lúc sau, D điện cho Đ bảo đang bị hỏng xe ở gần cây xăng Quân Đội thuộc xã T, thành phố B nên bảo Đ đến đón. Đ đi xe mô tô nhãn hiệu Wave ZX mầu trắng đen, không mang biển kiểm soát đến chỗ N và D bị hỏng xe và đèo N đi đến khu vực chân cầu Mỹ Độ, thành phố B để mua ma túy, đến nơi, Đ bảo N đứng đợi ở rìa đường, Đ đi bộ vào một nhà ở dưới sườn đường có cửa sắt, qua lỗ nhỏ cửa sắt Đ hỏi mua 200.000 đồng tiền ma túy tổng hợp dạng ngựa và 700.000 đồng tiền ma túy tổng hợp dạng đá của một người đàn ông không quen biết, người đàn ông đó cầm tiền và đưa lại cho Đ 02 túi ni lon màu trắng. Sau khi mua được ma túy, Đ cầm ở tay trái đi ra chỗ N đợi và trở N về chỗ D đợi ở chỗ sửa xe. Đến nơi N đi vào trong quán sửa xe, Đ đèo D đi xe đến quán tạp hoá “C” gần đó, D đứng ở bên ngoài đợi, Đ vào mua một cuộn giấy bạc và một túi ống hút bằng nhựa. Khi Đ đi ra chỗ D thì bị lực lượng Công an 113, Công an tỉnh Bắc Giang kiểm tra bắt quả tang.

Đối với chiếc 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave ZX màu trắng đen, quá trình điều tra đã xác định chiếc xe này có BKS 98L8-2609 của chị Đào Thị T mua lại của một người không quen biết. Chị Thìn cho Đ mượn đi làm. Chị không biết Đ dùng đi mua ma tuý. Do vậy Cơ quan điều tra Công an thành phố B đã trả lại chiếc xe này cho chị Đào Thị T.

Đối với 02 chiếc điện thoại Iphone 6 đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen là tài sản của Thân Văn Đ, không liên quan đến vụ án. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Thân Văn Đ.

Vật chứng gồm: 01 phong bì thư dán kín đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 gậy ba khúc bằng kim loại; 01 cuộn giấy bạc; 01 túi ống hút bằng nhựa; 2.400.000 đồng, được nhập kho vật chứng được để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 106/QD-VKSTPBG ngày 28/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Thân Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đào Thị T trình bày: Năm 2017 chị có mua chiếc xe mô tô nhãn hiệu WAVA màu trắng đen, biển kiểm soát 98L8- 2609 của một người không quen biết để làm phương tiện đi lại, khi mua không làm giấy tờ gì. Ngày 15/3/2018 chị có cho Đ mượn để đi làm, chị không biết Đ sử dụng chiếc xe để đi mua và tàng trữ ma tuý. Nay chị đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phạm Mai Đ vắng mặt nhưng có lời khai như sau: Năm 2013 anh có mua một chiếc xe mô tô nhãn hiệu WAVA màu trắng đen, biển kiểm soát 98L8-2609 mang tên anh Phạm Mai Đ. Đến năm 2016 do không có nhu cầu sử dụng nên anh đã bán chiếc xe nói trên cho một người không quen biết, khi bán không làm giấy tờ gì, không sang tên đổi chủ. Nay anh khẳng định là không còn liên quan gì đối với chiếc xe trên và không có yêu cầu gì.

* Người làm chứng anh Dương Văn N vắng mặt nhưng có lời khai như sau: Tối ngày 15/3/2018 anh và D có đi ăn cùng với Đ, sau khi ăn xong thì Đ rủ đi hát karaoke, Đ nói là đi trước có việc và bảo anh và D đến quán hát trước, khi các anh đi đến cây xăng thì bị hỏng xe nên đã điện cho Đ, một lúc sau Đ đến chỗ hỏng xe và chở anh đi, khi Đ chở anh đến chân cầu Mỹ Độ thì Đ dừng và xuống xe bảo anh đợi, Đ đi bộ một lúc thì quay ra, Đ không hề nói với anh là đi mua ma tuý nên anh không biết Đ tàng trữ ma tuý trong người.

* Người làm chứng anh Lò Văn D vắng mặt nhưng có lời khai như sau: Tối ngày 15/3/2018 anh và N có đi ăn cùng với Đ, sau khi ăn xong thì Đ rủ đi hát karaoke, Đ nói là đi trước có việc và bảo anh và N đến quán hát trước, khi các anh đi đến cây xăng thì bị hỏng xe nên đã điện cho Đ, một lúc sau Đ đến chỗ hỏng xe và chở anh N đi đâu đó rồi quay lại chỗ anh đang sửa xe. Sau đó Đ chở anh đi đến cửa hàng tạp hoá Đ vào mua đồ, khi Đ quay ra thì bị Công an bắt và thu giữ trong người Đ một số ma tuý. Anh không biết Đ tàng trữ ma tuý trong người.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Thân Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt Thân Văn Đ từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi số ngày bị tạm giữ từ ngày 15/3/2018 đến ngày 24/3/2018.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015. Điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 gậy ba khúc bằng kim loại; 01 cuộn giấy bạc; 01 túi ống hút bằng nhựa;

- Trả lại bị cáo Thân Văn Đ 2.400.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiển sát, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Về tội danh: Tại phiên tòa , bị cáo Thân Văn Đ một lần nữa đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có tring hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên. Hội đồng x étxử ktees luận: Hồi 21 giờ 15 phút, ngày 15/03/2018, tại khu vực trước cửa quán tạp hóa C, đường V, thôn Đ, xã T, thành phố B; Tổ tuần tra kiểm soát Đội cảnh sát 113, phòng PC 64, Công an tỉnh Bắc Giang, tiến hành kiểm tra bắt quả tang Thân Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép 0,893 gam chất ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Chỉ vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất biệt dược gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự, an ninh xã hội. Từ tệ nạn ma túy làm nảy sinh nhiều loại tội phạm khác, gây nhức nhối cho toàn xã hội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự và có hình phạt tù tương xứng buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người tốt và răn đe phòng ngừa chung.

[5]. Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[6]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[7]. Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[8]. Xét về hình phạt bổ sung: Bị cáo là thanh niên mới lớn, bị cáo không có tài sản riêng. Căn cứ biên bản xác minh ngày 16/3/2018 với chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú xác định: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có điều kiện để thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10]. Đối với người bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết tên tuổi địa chỉ nên không có căn cứ điều tra xử lý.

[11]. Đối với anh Dương Văn N và anh Lò Văn D là người đi cùng với Đ nhưng đều không biết Đ mua ma tuý để sử dụng nên không vi phạm pháp luật.

[12]. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave ZX mầu trắng đen là phương tiện bị cáo sử dụng để đi mua ma tuý, trong quá trình điều tra chứng minh được chiếc xe này là của chị Đào Thị T (mẹ bị cáo) cho bị cáo mượn, chị Thìn không biết bị cáo sử dụng để đi mua ma tuý nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Thìn là đúng.

[13]. Đối với 02 chiếc điện thoại Iphone 6 đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen là tài sản của Thân Văn Đ, không liên quan đến vụ án. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Thân Văn Đ là đúng.

[14]. Về xử lý vật chứng và tài sản bị tạm giữ:

- 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định bên trong có chứa chất ma túy Methamphetamine, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 gậy ba khúc bằng kim loại; 01 cuộn giấy bạc; 01 túi ống hút bằng nhựa có giá trị không lớn nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với số tiền 2.400.000 đồng thu trong người bị cáo nhưng không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[15]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thân Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Thân Văn Đ 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi số ngày bị tạm giữ từ ngày 15/3/2018 đến ngày 24/3/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015. Điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định bên trong có chứa chất ma túy Methamphetamine.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 gậy ba khúc bằng kim loại; 01 cuộn giấy bạc; 01 túi ống hút bằng nhựa;

- Trả lại bị cáo Thân Văn Đ 2.400.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng theo giấy nộp tiền vào tài khoản tại kho bạc Nhà nước tỉnh Bắc Giang ngày 22/6/2018 của Công an thành phố B. Quyết định chuyển vật chứng số

91/KSĐT ngày 28 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B và biên bản giao nhận tài sản tạm giữ ngày 17/7/2018 giữa Công an thành phố B với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

4. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Thân Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2018/HS-ST ngày 10/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về