Bản án 09/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM KỲ- TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 25/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam tiến hành mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 147/2020/TLHS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HS ngày 07/01/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 10 tháng 02 năm 1970; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khối phố 3, phường PH, thành phố TK, tỉnh Quảng Nam; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; con ông Nguyễn T (chết) và bà Nguyễn Thị N (chết); vợ Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1979; có 02 con, lớn sinh măm 1997, nhỏ sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm 1970.

Trú tại: Khối phố 2, phường PH, thành phố TK, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 02 giờ 00 phút ngày 10/10/2020, Nguyễn Văn Đ đi bộ từ nhà của mình ra đường PCT để ăn khuya. Khi đi đến đoạn hiệu buôn TH ở Số 427 đường PCT, khối phố 2, phường PH, thành phố TK, thấy hiệu buôn TH khóa cửa ngoài, xung quanh không có người nên Đ nảy sinh ý định vào hiệu buôn để trộm cắp tài sản. Đ trèo lên cửa hông phía trước của hiệu buôn TH để lên mái nhà, gỡ những tấm ngói tạo ra khoảng trống rồi chui vào trong hiệu buôn. Đ lấy trộm của bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm 1970, trú tại: Khối phố 2, phường PH, thành phố TK 42 (bốn mươi hai) bộ ổ khóa các loại còn nguyên hộp, 01(một) cân điện tử, 01(một) kìm bấm, 01(một) cái búng mực, 01(một) kéo cắt tôn, 01 (một) tuốc nơ vít, 01 (một) bộ gồm 7 cái cờ lê, 02 (hai) máy khoan hiệu Bosch GSB 550, 01 (một) máy khoan hiệu Bosch GSB 13 RE, 01 (một) máy cắt cầm tay, tất cả đều là hàng mới còn nguyên hộp, tại quầy trưng bày bán hàng rồi bỏ tất cả tài sản trên vào 01 bao tời màu vàng có sẵn trong hiệu buôn. Đ tiếp tục đi lại bàn thu ngân mở ngăn kéo tủ ra lấy 01 (một) sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng dài 55 cm, có mặt dây chuyền dạng hộp nhựa bên trong hình phật bà quan âm, khung viền bằng kim loại màu vàng bỏ vào túi quần của mình. Sau đó, Đ dùng mỏ lết có sẵn tại hiệu buôn mở 02 ốc vít của cửa sắt chính rồi kéo mở cửa mang những tài sản trộm cắp được về cất giấu tại nhà cha vợ là ông Nguyễn Hữu L (ông L đã già yếu) tại Khối phố 1, phường AM, thành phố TK.

Cơ quan CSĐT đã tạm giữ từ Nguyễn Văn Đ toàn bộ số tài sản nói trên.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 109/KL-HĐĐGTS ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự TP. Tam Kỳ xác định: 42 (bốn mươi hai) bộ ổ khóa các loại còn nguyên hộp, 01(một) cân điện tử, 01(một) kìm bấm, 01(một) cái búng mực, 01(một) kéo cắt tôn, 01 (một) tuốc nơ vít, 01 (một) bộ gồm 7 cái cờ lê, 02 (hai) máy khoan hiệu Bosch GSB 550, 01 (một) máy khoan hiệu Bosch GSB 13 RE, 01 (một) máy cắt cầm tay có tổng giá trị là 12.863.000đ (Mười hai triệu tám trăm sáu mươi ba nghìn đồng).

Đi với sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng và mặt dây, theo bị hại là bà H sợi dây chuyền bằng vàng tây 18K (không nhớ trọng lượng) mua năm 2010 với giá 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng); mặt dây chuyền hình Phật hột xá lợi được mua khi đi du lịch Thái Lan năm 2019 với giá tiền 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng), mua theo giá trị tâm linh chứ tài sản không có giá trị vật chất, nên bà H yêu cầu khi giám định hoặc định giá không được tháo mặt dây chuyền ra kiểm tra vì sợ hư hỏng. Tại Bản kết luận giám định số: 1203/C09C- Đ2, ngày 26/11/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận:

sợi dây chuyền kim loại màu vàng, dài 55cm qua giám định có kim loại vàng (Au) hàm lượng kim loại vàng trung bình 67,9%, khối lượng mẫu là 7,84 gam. Khung viền bằng kim loại màu vàng của mặt dây chuyền dạng hộp nhựa kích thước khoảng (01x01x03)cm qua giám định khung kim loại có kim loại vàng (Au), hàm lượng kim loại vàng là 71,98%; tổng khối lượng mẫu là 3,97 gam (tính cả hộp nhựa bên trong có hình phật bà quan âm và hạt khối cầu màu vàng).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 123/KL-HĐĐGTS ngày 07/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự TP. Tam Kỳ xác định: sợi dây chuyền kim loại màu vàng, dài 55 cm hàm lượng kim loại vàng (Au) trung bình 67,9%, khối lượng 7,84 gam, loại Vàng 18K có giá trị là 7.108.300đ (Bảy triệu một trăm lẻ tám nghìn ba trăm đồng). Đối với khung viền bằng kim loại màu vàng của mặt dây chuyền dạng hộp nhựa kích thước khoảng (01x01x03)cm do người bi hại không cho tháo rời các bộ phận nên không xác định được trọng lượng Vàng nên Hội đồng thống nhất không định giá.

Tng giá trị tài sản mà Nguyễn Văn Đ đã trộm cắp được, theo kết luận định giá là 19.971.300đ (Mười chín triệu chín trăm bảy mươi mốt nghìn ba trăm đồng).

Cáo trạng số 05/CT-VKSTK-HS ngày 25/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam truy tố Nguyễn Văn Đ về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội "Trộm cắp tài sản"; về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng kể từ ngày xét xử sơ thẩm. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; không có ý kiến gì về kết luận định giá tài sản đồng thời mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Kỳ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Kỳ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ khai nhận: Khoảng 02 giờ ngày 10/10/2020, bị cáo đi bộ từ nhà của mình ra đường PCT để ăn khuya, khi đến tiệm buôn TH, số 427 PCT, thành phố TK phát hiện xung quanh không có ai nên bị cáo đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Bị cáo Nguyễn Văn Đ đã lén lút đột nhập vào hiệu buôn TH chiếm đoạt tài sản của của Huỳnh Thị Ngọc H, gồm 42 bộ ổ khóa ; 01 cân điện tử; 01 kìm bấm; 01 cái búng mực; 01 kéo cắt tôn; 01 tuốc nơ vít; 01 bộ gồm 7 cái cờ lê; 01 máy khoan hiệu Bosch GSB 550; 01 máy khoan hiệu Bosch GSB 13 RE; 01 máy cắt cầm tay (tất cả đều là hàng mới, còn nguyên hộp); 01 sợ dây chuyền bằng kim loại màu vàng, dài 55cm có mặt dây chuyền dạng hộp nhựa bên trong hình phạt bà quan âm, khung viền bằng kim loại màu vàng. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp theo định giá là 19.971.300 đồng.

Đi chiếu lời khai nhận của bị cáo với các tài liệu chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Hành vi lén lút trộm cắp tài sản có giá trị 19.971.300 đồng của bị cáo Nguyễn Văn Đ đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng số 05/CT-VKSTK-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Kỳ đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ là đúng pháp luật.

[2.2] Bị cáo Nguyễn Văn Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ về hành vi vi phạm của mình nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của bị hại, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng để răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[2.3]. Xét, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo Nguyễn Văn Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù có thời hạn mà cho bị cáo hưởng án treo, giao bị cáo về cho chính quyên địa phương nơi bị cáo cư trú, giám sát cũng phù hợp.

[2.4] Về trách nhiệm dân sự: Chị Huỳnh Thị Ngọc H đã nhận lại toàn bộ tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Huỳnh Thị Ngọc H toàn bộ tài sản mà bị cáo Đ đã trộm cắp là phù hợp.

[2.6] Về những vấn đề liên quan trong vụ án:

Sau khi trộm cắp được tài sản thì bị cáo Đ mang toàn bộ tài sản này về nhà ông Nguyễn Hữu L để cất giấu, ông L đã già yếu, không biết việc Đ trộm cắp nên không đề cập xử lý là phù hợp.

[2.7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng tình từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/01/2021).

Giao bị cáo Nguyễn Văn Đ cho Ủy ban nhân dân phường Phước Hòa, thành phố Tam Kỳ giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người tham gia tố tụng vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Kỳ - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về