Bản án 09/2021/HSST ngày 22/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 09/2021/HSST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã K1, huyện T2, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2021/TLST- HS ngày 13- 01- 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/ QĐXXST- HS ngày 13- 01- 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức C1, sinh ngày 14 tháng 11 năm 1980; nơi sinh: Huyện T2, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn H1, xã T1, huyện T2, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; họ tên bố: Nguyễn Đức C2; họ tên mẹ: Nguyễn Thị D1 (đã chết); họ tên vợ: Nguyễn Thị L1; chưa có con. Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 15- 03- 2013, bị Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đến tháng 6- 2019 chấp hành xong hình phạt tù; Danh chỉ bản số 212 do Công an huyện T2 lập ngày 09- 10- 2020. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08- 10- 2020; bị tạm giam từ ngày 11- 10- 2020; hiện bị tạm giam tại Trại Tạm giam thuộc Công an tỉnh Thái Binh, trích xuất, có mặt.

-Người chứng kiên:

1). Ông Phạm Trung T3, sinh năm 1957; nơi cư trú: Thôn H1, xã T1, huyện T2, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

2). Anh Phạm Văn Đ1, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn H1, xã T1, huyện T2, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 15 phút ngày 08- 10- 2020, tổ công tác Công an huyện T2, Công an xã T1 tiến hành kiểm tra đối với bị cáo C1 đang đi bộ tại đoạn đường thuộc địa phận thôn H1, xã T1. Tổ công tác đã phát hiện, thu giữ tại túi áo ngực trái của bị cáo 02 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục (mẫu A1). Bị cáo trình bày đó là ma túy, loại Heroine do bị cáo vừa mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; niêm phong vật chứng. Ông T3, anh Đ1 đã trực tiếp chứng kiến việc phát hiện, thu giữ và niêm phong ma túy. Theo kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Thái Bình thì mẫu A1 thu giữ của bị cáo là ma túy, loại Heroine, khối lượng là 0,1699gam.

Các chứng cứ chứng minh : Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định; Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy; Bản án và tài liệu về việc thi hành án hình phạt tù, thi hành án phí; Biên bản xác minh, biên bản làm việc về nhân thân, về tài sản; lời khai của người chứng kiến là ông T3, anh Đ1 và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vât chưng cua vu anđang quan ly tai Chi cuc Thi hanh an luậthuyên Thai Thulyà 0,1270gam ma túy, loại Heroine.

Tại phiên tòa, bị cáo trình bày: Bị cáo nghiện ma túy từ năm 2012 nên thường mua ma túy về sử dụng. Hồi 08 giờ 30 phút ngày 08- 10- 2020, bị cáo đi nhờ xe từ xã T4 đến thôn H1, xã T1 tìm mua ma túy về sử dụng. Sau khi xuống xe, bị cáo đi bộ một đoạn thì gặp một người đàn ông, đã mua của người này 02 gói ma túy, loại Heroine giá 200.000đồng. Bị cáo cất số ma túy vừa mua vào túi áo ngực rồi đi bộ về. Bị cáo đi được một đoạn thì bị Công an yêu cầu kiểm tra; đã bị thu giữ hai gói ma túy vừa mua, chưa kịp sử dụng. Bị cáo mua ma túy để sử dụng, không có mục đích khác.

Bản cáo trạng số 05/CT-VKSTT ngày 12- 01- 2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Luận tội của Kiểm sát viên: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016. Kiểm sát viên đề nghị: túyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; xử phạt bị cáo từ 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng đến 02 (Hai) năm tù; không áp dụng hình phạt tiền; tịch thu tiêu hủy số ma túy; bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đều trình bày: Ngày 08- 10- 2020, bị cáo đã mua 02 gói ma túy, loại Heroine; cất trong túi áo ngực nhưng chưa sử dụng thì bị phát hiện. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với cac chưng cư khac cua vu an . Chất Heroine là chất ma túy được quy định trong Nghị định số 73/2018/NĐ- CP Ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất ma túy ngày 15/5/2018 của Chính phủ nên hành vi của bị cáo đã vi phạm chế độ quản lý về chất ma túy. Bị cáo là ngươi trên18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hanh vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo tàng trữ 0,1699gam ma túy, loại Heroine nên hành vi của bị cáo đã câu tha nh tôi:

Tàng trữtrái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”theo điều luật trên là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

Điều249. Tội tang trữ trái phép chất ma túy

1.Người nào Tàng trữtrái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua b, án vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a).....

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam...; ”.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

-Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

-Bị cáo thành khẩn khai báo; có bố được tặng thưởng Huân, Huy chương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo là người lao động nhưng có nhân thân xấu, là người nghiện ma túy. Mặc dù biết tac hai cua ma túy , biêt viêc Tàng trữma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn Tàng trữtrái phép chất ma túy. Hành vi cua bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự; cần áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt tù để giáo dục bị cáo và góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Theo các tài liệu, chứng cứ trong quá trình điều tra và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có tài sản; việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng, xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án là 0,1699gam ma túy, loại Heroine; sau khi lấy mẫu giám định còn lại 0,1270gam ma túy; hiện đang quản lý tại Chi cục Thi hành án huyện Thái Thtụhyeo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12- 01- 2021. Đây là vật cấm Tàng trữ, cần áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về các vấn đề khác của vụ án: Bị cáo trình bày: Trước đây, bị cáo mua ma túy nhưng không biết tên, địa chỉ người bán. Ngày 08- 10- 2020, bị cáo đi nhờ xe đến thôn H1, xã T1 mua ma túy nhưng bị cáo không biết tên, địa chỉ người cho bị cáo đi nhờ, không biết tên, địa chỉ người bán ma túy. Vì vậy , Cơ quan điều tra không có cơ sở xác định những lần mua ma túy trước đây; cũng không có cơ sở xác định ngươi đi xe đã cho bị cáo đi nhờ, người bán ma túy cho bị cáo ngày 08- 10- 2020.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000,đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức C1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Áp dụng: Điểm c k hoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

-Xử phạt bị cáo 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 10 năm 2020.

-Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,1270gam ma túy, loại Heroine của mẫu A1; hiện đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12- 01- 2021.

4. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải chịu 200.000,đồng án hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày túyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HSST ngày 22/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về