Bản án 09/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 248/2020/TLST – HS ngày 28 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST – HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Vũ Văn C, sinh năm 1996 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nơi cư trú: Khu phố A, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn H và bà Phan Thị C; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Tại quyết định số 02/QĐ- XPHC ngày 22/01/2020 của Công an phường Hắc Dịch xử phạt vi phạm hành chính bị cáo với số tiền 750.000 đồng vì có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (bị cáo chưa nộp tiền phạt); bị bắt ngày 28-9-2020 (Có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Lê T, tên gọi khác: X, sinh năm 1998 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nơi cư trú: Ấp S, xã L, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hải H và bà Lê Thị Ngọc T; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 16-7-2020 (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Tô Hoài H, sinh năm 1990. Địa chỉ: Số M, khu phố L, phường F, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

- Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1973. Địa chỉ: Ấp O, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Nguyễn Trung H, sinh năm 1991. Địa chỉ: Khu phố K, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Văn C, Nguyễn Lê T là bạn bè và cùng nghiện ma túy. Khoảng 00 giờ 10 phút, ngày 16 tháng 7 năm 2020, T đến nhà của C ở Khu phố A, phường Hắc Dịch, thị xã Phú Mỹ để chơi, lúc này do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T và C đã thỏa thuận góp tiền để đi mua ma túy về cùng sử dụng, trong đó T góp số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), C góp số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Sau đó, T chở C bằng xe mô tô biển số 59G1-373.05 đi đến khu vực khu phố N, phường H, thị xã Phú Mỹ, gặp người đàn ông tên Q (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua một gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) nhưng do chưa có tiền nên C mua thiếu và hẹn Q ngày hôm sau sẽ trả tiền. Sau khi mua được ma túy, T và C đem về nhà lấy một ít ma túy ra để cả hai người cùng sử dụng, số ma túy còn lại C cất giấu trong người. Đến khoảng 01 giờ 30 cùng ngày, khi C và T đang ngồi chơi ở ghế đá phía trước nhà của C thì Công an phường H đến kiểm tra hành chính, khi phát hiện có lực lượng Công an, C đã vứt lại gói ma túy chỗ T đang ngồi và chạy thoát. Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt; 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại Novo, màu trắng-vàng, biển số: 59G1-737.05. Đến ngày 28/9/2020, Cường đến cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Mỹ để trình diện. Quá trình điều tra, Vũ Văn C và Nguyễn Lê T đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Tại Kết luận giám định số: 335/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, kết luận: Mẫu kết tinh không màu-trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường Hắc Dịch-CA TX Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Đại úy Lê Xuân Đ, Nguyễn Lê T, Nguyễn Hải T, Nguyễn Trung H gửi đến giám định có khối lượng 0,2476 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Vật chứng trong vụ án:

- Một (01) phong bì ni m phong đề số: 335, ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định, trên phong bì có chữ ký, họ và tên của ông: Nguyễn Đức T và Võ Thanh H.

- Một (01) xe mô tô hiệu Yamaha loại Novo, màu trắng-vàng, biển số: 59G1-737.05, số máy: 5P11-191151, số khung: 110AY-191150. Quá trình điều tra xác định do ông Tô Hoài H đứng tên trong giấy đăng ký xe, ông H đã bán chiếc xe này cho một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch. Ông Trần Văn Đ khai nhận chiếc xe biển số: 59G1-737.05 do ông Đ mua lại của một người phụ nữ không rõ nhân thân, lai lịch. Vào ngày 15/7/2020, ông Đ cho Nguyễn L T mượn xe mô tô trên để đi, ông Đ không biết T sử dụng xe mô tô biển số: 59G1-737.05 vào mục đích phạm tội.

Toàn bộ số vật chứng trên đã chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ bảo quản, chờ xử lý theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 23 tháng 12 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ đã truy tố Vũ Văn C, Nguyễn Lê T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Vũ Văn C, Nguyễn Lê T phạm tội “Tàng trữ trái phép trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Vũ Văn C từ 15 tháng đến 18 tháng tù và xử phạt bị cáo Nguyễn L T từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định;

Đối với 01 xe mô tô biển số: 59G1-737.05 đề nghị trả lại cho ông Trần Văn Đ do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến gì về bản luận tội của Kiểm sát viên, các bị cáo nói lời sau cùng xin được Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án và tội danh, khung hình phạt:

Tại phiên tòa, các bị cáo Vũ Văn C, Nguyễn Lê T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 16-7-2020, tại nhà của Vũ Văn C thuộc khu phố A, phường H, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vũ Văn C, Nguyễn Lê T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2476 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường H phát hiện, bắt quả tang.

Như vậy, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để kết luận hành vi của các bị cáo Vũ Văn C, Nguyễn Lê T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đúng như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

Về tình tiết tăng n ng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo T chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo C có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

[4]. Về mức hình phạt: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến tinh thần và sức khỏe của con người và là nguồn gốc phát sinh ra các tội phạm khác. Vì vậy đối với các bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt nghi m khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ như đã phân tích ở trên nhưng trong vụ án này bị cáo C có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, là người trực tiếp liên hệ mua ma túy của Q và sử dụng nơi ở của mình để sử dụng ma túy. Do đó đối với bị cáo C cần có một hình phạt nghi m khắc hơn bị cáo T để giáo dục và phòng ngừa chung.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có việc làm nên không có thu nhập, vì vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6]. Đối với người đàn ông tên Q đã bán ma túy cho các bị cáo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Mỹ tiếp tục điều tra, xác minh nhân thân, lai lịch và hành vi phạm tội, khi có kết quả sẽ xử lý sau.

[7]. Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 59G1-737.05 mà các bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy do ông Tô Hoài H đứng tên sở hữu theo giấy đăng ký xe, sau đó ông H đã bán chiếc xe trên cho một người không rõ họ tên và địa chỉ, vào năm 2017 ông Đ mua lại xe này với giá 7.000.000 đồng để sử dụng, khi mua hai bên chỉ làm giấy tay, không làm thủ tục sang tên theo quy định, việc các bị cáo dùng xe mô tô biển số 59G1-737.05 đi mua ma túy thì ông Đ không biết nên cần trả lại tài sản này cho ông Đ vì ông Đ không có lỗi trong việc cho mượn xe của ông vào việc phạm tội, yêu cầu ông Đ hoàn tất thủ tục trước bạ sang tên theo quy định của pháp luật.

[8]. Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuy n bố các bị cáo Vũ Văn C, Nguyễn L T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Văn C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/9/2020.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn L T 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/7/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng một phong bì ni m phong vụ số 335 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ni m phong và đóng dấu.

Trả lại cho ông Trần Văn Đ một (01) xe mô tô hiệu Yamaha loại Novo, màu trắng-vàng, biển số 59G1-737.05, số máy: 5P11-191151, số khung: 110AY-191150 (xe đã cũ và hư hỏng).

(Các vật chứng nêu trên hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quản lý theo bi n bản giao nhận vật chứng số 36/BB-CCTHADS ngày 25/12/2020).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Vũ Văn C, Nguyễn L T mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về