Bản án 09/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 220/2020/HSST Ngày 26 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST-HS Ngày 05 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Cao Ngọc N, Sinh Ngày 20 tháng 6 năm 1992 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: xã H, huyện B, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: không; Cha: ông Cao Văn H, sinh năm 1956, nghề nghiệp: làm mộc; Nơi cư trú: Sông Mao, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận; Mẹ: bà Lê Thị L; sinh năm 1952; nghề nghiệp: nội trợ; Nơi cư trú: xã H, huyện B B, tỉnh Bình Thuận; Anh chị em ruột: có 03 người, bị cáo là con út trong gia đình; Vợ: Lê Thị Như T; sinh năm 1989; nghề nghiệp: kế toán; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ Ngày 13/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Phan Thiết.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1/ Chị Lê Thị Cẩm L - sinh năm 1995 (vắng mặt) Trú tại: thôn T, xã T L, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận

2/ Anh Chung Văn T - sinh năm 1998(vắng mặt) Trú tại: thôn T H, xã H T, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

3/ Chị Đặng Thị Huyền T1 - sinh năm 1989 (vắng mặt) Trú tại: khu phố 3, phường X A, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Đoàn Việt T2 - sinh năm 1979 (vắng mặt) Trú tại: khu phố 6, phường P, thành phố P T, tỉnh Bình Thuận

2/ Nguyễn Thành T3 - sinh năm 2002 (vắng mặt) Trú tại: thôn X, xã P, thành phố P T, tỉnh Bình Thuận.

3/ Chị Nguyễn Đặng Thanh N - sinh năm 1984 (có đơn xin vắng mặt) Trú tại khu phố 13, phường P, thành phố P T, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ Ngày 26/11/2019 đến Ngày 22/5/2020, Cao Ngọc N đã thực hiện 03 vụ “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn thành phố Phan Thiết. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Do có quan hệ đồng nghiệp làm chung công ty trước đây, vào lúc 20 giờ 30 phút Ngày 26/11/2019, Cao Ngọc N đến quán nhậu Nghĩa Phát thuộc khu phố 01, phường Phú Tài gặp chị Lê Thị Cẩm L là nhân viên của quán để hỏi mượn xe để đi công việc. Chị L đồng ý và đưa cho N mượn xe mô tô hiệu Suzuki Raider, biển số 86B1-182.56. N điều khiển xe mô tô trên đến tiệm game bắn cá Không Gian ở đường Tuyên Quang, thành phố Phan Thiết để chơi game. Sau khi chơi game hết tiền thì N nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của chị L. N đem chiếc xe mô tô biển số 86B1-182.56 đi cầm thế cho anh Đoàn Việt T2 ở tiệm cầm đồ 27 trên đường V, khu phố 6, phường P, thành phố P t. Do N cầm thế xe nhiều lần và cũng đã lấy ra đúng hẹn nên T2 tin tưởng đồng ý cầm thế xe với giá 6.000.000 đồng. Xe không có giấy tờ nên T2 viết giấy vay mượn tiền để làm tin. Sau khi nhận tiền, N tiếp tục đi chơi game bắn cá. L có gọi điện thoại cho N nhưng N tắt máy không nghe, đến Ngày 28/11/2019, N nói đã đem xe đi cầm, Ngày 08/12/2019 sẽ chuộc xe trả cho L. Đến Ngày hẹn thì không thấy N trả xe, L có liên lạc nhiều lần nhưng không được. Ngày 24/5/2020, chị L đến Công an phường Phú Tài trình báo sự việc. Sau đó, N có nói cho L biết chỗ cầm thế xe để L tự đi chuộc lại. Khi L đi chuộc xe thì T2 nói bạn của N đã đến đưa chứng minh nhân dân của N và chuộc lại xe với giá 7.000.000 đồng.

Hiện chưa thu hồi được xe mô tô hiệu Suzuki Raider, biển số 86B1-18256.

Tại Kết luận định giá số 214/KL-HĐĐG Ngày 18/9/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết thể hiện: (Định giá qua hồ sơ, tài liệu) 01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Raider – biển số 86B1-182.56, số máy: G427101553, số khung: RLSBG41J0E0101685, trị giá tài sản là: 18.796.000 đồng.

Về phần dân sự:

Chị Lê Thị Cẩm L yêu cầu N bồi thường lại cho chị L số tiền 18.796.000 đồng, N chưa thực hiện việc bồi thường.

Vụ thứ hai: Vào lúc 12 giờ 30 phút Ngày 29/4/2020, Chung Văn T đang ở nhà thuộc thôn T, xã H, huyện B, tỉnh Bình Thuận thì nhận được điện thoại của Cao Ngọc N hẹn T vào Phan Thiết để trả số tiền 4.000.000 đồng mà N đã mượn T trước đó. Nghe vậy, T điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, biển số 86B2-423.98 vào Phan Thiết để gặp N như đã hẹn. Khi T đến khu vực vòng xoay siêu thị Lotte thì N hẹn gặp T tại nhà nghỉ Trà My địa chỉ A1 đường L, khu phố 14, phường P, thành phố Phan Thiết. Lúc T đến nhà nghỉ Trà My thì gặp N tại phòng số 201. N nói T nghỉ ngơi để N đi lấy tiền về trả đồng thời N mượn xe mô tô biển số 86B2-423.98 của T để đi chơi game. Sau khi chơi hết tiền, N nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô biển số 86B2-423.98. N gọi điện thoại cho anh Nguyễn Thành T3 nói đang kẹt tiền nên cầm thế xe. T3 đồng ý và hẹn ở đường T, phường , thành phố P T để xem xe. Sau khi xem xe, T3 có hỏi nguồn gốc xe. N nói xe của N, giấy tờ để ở nhà ngoài Bắc Bình, khi nào N về nhà sẽ đem giấy tờ đưa cho T3 sau. T3 đồng ý cầm cho N với giá 4.000.000 đồng. Sau đó, N đi taxi về tiệm nét chơi game và thua hết 3.000.000 đồng. Đến khoảng 21 giờ thì N quay về khách sạn Trà My, T hỏi xe đâu thì N nói do thiếu nợ nên chủ nợ lấy xe, sáng mai sẽ lấy xe ra. T hỏi N còn thiếu bao nhiêu tiền thì N nói còn thiếu 3.000.000 đồng. Lúc này T tự đưa điện thoại Vsmart Active 3 màu hồng tím cho N mang đi cầm thế. N đến tiệm điện thoại Hải Nam ở đường Tuyên Quang cầm điện thoại với giá 1.500.000 đồng, N dùng 800.000 đồng mua lại điện thoại cũ hiệu Vsmart cho T, còn 700.000 đồng để tiêu xài và chơi game. Sau khi cầm thế điện thoại, N quay lại khách sạn và đưa cho T 01 điện thoại Vsmart màu đen để dùng đỡ. Đến Ngày 03/5/2020, N tiếp tục mượn điện thoại mà N đã đưa cho T trước đó mang đi cầm thế được 700.000 đồng rồi dùng tiêu xài cá nhân. T tiếp tục ở nhà nghỉ đợi nhưng không thấy N quay lại. T trả phòng để về nhà, T có gọi điện thoại cho N nhưng không liên lạc được. Sau đó, T đến Công an phường trình báo sự việc. Đến Ngày 11/5/2020, N liên hệ với T3 đã cầm xe mô tô biển số 86B2-423.98 thêm số tiền 7.000.000 đồng.

Tại Kết luận định giá số 108/KL-HĐĐG Ngày 25/5/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết thể hiện:

01 chiếc xe mô tô hiệu YAMAHA EXCITER, biển số 86B2-423.98, số máy: G3D4E689229, số khung: 0610JY661902, trị giá tài sản là 36.400.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

01 xe mô tô biển số 86B2-423.98, hiệu Yamaha, loại xe Exciter, màu đen, số máy: G3D4E689229, số khung: 0610JY661902.

Xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP.Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại xe mô tô biển số 86B2-423.98 cho chủ sở hữu anh Chung Văn T. Anh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì khác.

Về phần dân sự:

Anh Nguyễn Thành T3 yêu cầu N bồi thường lại cho T3 số tiền đã cầm thế xe là 11.000.000 đồng. N chưa thực hiện việc bồi thường.

Đối với chiếc điện thoại hiệu Vsmart Active 3 T tự nguyện giao cho N, N đã đem đi cầm thế được 1.500.000 đồng. N dùng 800.000 đồng để mua lại điện thoại Vsmart màu đen cho T. Sau đó, N tiếp tục mượn điện thoại Vsmart này để đem đi cầm thế được 700.000 đồng; anh T không yêu cầu bồi thường, mặt khác cũng không thu giữ được các điện thoại này để xác định giá trị nên N không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

Vụ thứ ba: Vào lúc 13 giờ Ngày 22/5/2020 anh Nguyễn Xuân T, khai trương Công ty tại KM9, Quốc lộ 28, xã HC, huyện H. Do bận nên anh Tình nhờ nhân viên công ty là Cao Ngọc N chở vợ anh Tình là chị Đặng Thị Huyền T1 đi khám thai. Anh Tình đưa cho N 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nozza biển số 86C1-092.26 để chở T1 đi khám thai. N đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 86C1-092.26 chở T1 đến Bệnh viện An Phước tại khu phố 7, phường P T, thành phố P T để khám thai. Tại bệnh viện, do không được mang điện thoại vào phòng khám nên T1 đưa cho N ngồi ở ngoài chờ giữ giùm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax. Trong lúc chờ T1 khám thai thì có chủ nợ của N đến đòi tiền. Do không có tiền trả nợ nên N nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của T1 mang đi cầm thế để lấy tiền trả nợ. Khoảng 15 giờ cùng Ngày, N lấy xe mô tô hiệu Yamaha Nozza biển số 86C1-092.26 và điện thoại của chị T1 đến tiệm cầm đồ 5S của chị Nguyễn Đặng Thanh N, địa chỉ 89 Đặng Văn Lãnh, khu phố 1, phường P T, thành phố P T để cầm điện thoại Iphone 11 Promax. Tại đây, chị N có kiểm tra T3 tin và hình ảnh trên điện thoại. N đã cung cấp đúng mật khẩu và hình ảnh hiển thị trên điện thoại là ảnh của N nên chị N đồng ý cầm điện thoại trên với giá 18.000.000 đồng và chị N có làm hợp đồng cầm đồ đưa cho N. Sau khi lấy tiền, N đã trả nợ 17.500.000 đồng, còn 500.000 đồng N dùng tiêu xài cá nhân. Sau đó, N lấy xe hiệu Yamaha Nozza biển số 86C1-092.26 đi về nhà ở Hòa Thắng để mượn tiền chuộc điện thoại cho T1. Tuy nhiên khi về đến nhà không mượn được tiền ai nên N chạy xe vào lại Phan Thiết. N đem xe đến nhà xe Hạnh cà phê gặp anh Nguyễn Văn L gửi xe vào thành phố Hồ Chí Minh với mục đích sử dụng cá nhân. Sau đó, N đi chơi game đến sáng rồi đến công ty Bình Thuận Land (nơi N làm việc) để lấy đồ thì bị lực lượng Công an đến mời về trụ sở làm việc.

Khong 16 giờ cùng Ngày, T1 khám bệnh xong thì không thấy N đâu, T1 liên lạc nhiều lần nhưng không được. Sau đó, T1 đi taxi về nhà để chờ N nhưng không thấy. Đến Ngày 23/5/2020, T1 nói T đến cơ quan Công an trình báo sự việc.

Tại Kết luận định giá số 109/KL-HĐĐG Ngày 25/5/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết thể hiện:

01 chiếc xe mô tô hiệu YAMAHA NOZZA, biển số 86C1-092.26 và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, tổng trị giá là 35.164.500 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax 64GB có vỏ màu vàng đồng, số Imei: 353926106971756, số Imei 2: 353926106877839) có mật khẩu 280489 - 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nozza biển số 86C1-092.26 Xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP.Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại xe mô tô hiệu Yamaha Nozza biển số 86C1-092.26 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax 64GB cho chủ sở hữu chị Đặng Thị Huyền T1. Chị T1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì khác.

Về phần dân sự:

Chị Nguyễn Đặng Thanh N yêu cầu N bồi thường lại cho N số tiền đã cầm thế điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max là 18.000.000 đồng. N chưa thực hiện việc bồi thường.

Tại Bản cáo trạng số 220/CT-VKS Ngày 25/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố bị cáo Cao Ngọc N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ N quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175; khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù.

Về phần dân sự:

- Buộc Cao Ngọc N bồi thường cho chị Lê Thị Cẩm L số tiền 18.796.000 đồng.

- Buộc Cao Ngọc N bồi thường cho anh Nguyễn Thành T3 số tiền 11.000.000 đồng.

- Buộc Cao Ngọc N bồi thường cho chị Nguyễn Đặng Thanh N số tiền 18.000.000 đồng.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đồng ý với lời luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, về hình phạt xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và hứa sẽ trở thành công dân tốt, tuân theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và xuất trình các chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, lời khai phạm tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ Ngày 26/11/2019 đến Ngày 22/5/2020, Cao Ngọc N đã thực hiện 03 vụ “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn thành phố Phan Thiết với tổng trị giá tài sản đã chiếm đoạt là 90.360.500 đồng. Cụ thể như sau:

- Vào Ngày 26/11/2019 tại khu phố 01, phường Phú Tài, thành phố Phan Thiết, sau khi mượn xe mô tô hiệu Suzuki Raider, biển số 86B1-182.56 trị giá 18.796.000 đồng của chị Lê Thị Cẩm L để đi công việc, do hết tiền chơi game, Cao Ngọc N nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản và đem xe mô tô biển số 86B1-18256 đi cầm thế cho anh Đoàn Việt T2 lấy tiền tiêu xài cá nhân.

- Vào Ngày 30/4/2020 tại khu phố 14, phường P , thành phố P, sau khi mượn xe mô tô biển số 86B2-42398 trị giá 36.400.000 đồng của Chung Văn T để đi công việc, Cao Ngọc N nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản và đem xe mô tô biển số 86B2- 42398 đi cầm thế cho anh Nguyễn Thành T3 lấy tiền tiêu xài cá nhân.

- Vào Ngày 22/5/2020 tại khu phố 7, phường PT, thành phố P, sau khi chị Đặng Thị Huyền T1 nhờ N giữ giùm 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nozza biển số 86C1-092.26 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax có tổng giá trị là 35.164.500 đồng để vào khám thai, do chủ nợ đòi tiền nên Cao Ngọc N nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của chị T1. N đem điện thoại đi cầm thế cho chị Nguyễn Đặng Thanh N lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân, còn xe mô tô biển số 86C1-092.26 gửi vào thành phố Hồ Chí Minh làm phương tiện đi lại thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi của bị cáo Cao Ngọc N đã phạm vào tội "Lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 điều 175 của Bộ luật hình sự. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy, bị cáo ý thức được tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ thế nhưng chỉ vì cần tiền tiêu xài cá nhân. Sau khi lần đầu thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bị phát hiện nhưng bị cáo không tỏ ra ăn năn, sợ hãi mà lại tiếp tục lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tới lần thứ ba là thể hiện sự táo bạo, liều lĩnh, thỏa mãn nhu cầu vật chất cá nhân, xem thường pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nên cần phải xử lý nghiêm vì vậy phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, sống tuân theo pháp luật, các quy tắc của cuộc sống và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã 03 lần thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà mỗi lần đều cấu thành tội phạm độc lập nên thuộc T2 hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, bị cáo biết rỏ chị T1 đang có thai nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt nên thuộc T2 hợp “Phạm tội đối với phụ nữ có thai” là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tôi có nhân thân tốt nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về mức hình phạt: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, giữ quyền công tố đã luận tội và tranh luận giữ N quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 2 điều 175, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i, g khoản 1 Điều 52, Điu 38, Điều 50 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Cao Ngọc N từ 04 năm đến 4 năm 06 tháng tù. Mức hình phạt và điều luật áp dụng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Chị Lê Thị Cẩm L yêu cầu bị cáo N bồi thường số tiền 18.796.000 đồng. Anh Nguyễn Thành T3 yêu cầu bị cáo N bồi thường số tiền 11.000.000 đồng. Chị Nguyễn Đặng Thanh N yêu cầu bị cáo N bồi thường số tiền 18.000.000 đồng. Xét thấy các yêu cầu của chị L, anh T3 và chị N là phù hợp nên buộc bị cáo Cao Ngọc N bồi thường cho chị Lê Thị Cẩm L 18.796.000 đồng, bồi thường cho anh Nguyễn Thành T3 11.000.000 đồng và bồi thường cho chị Nguyễn Đặng Thanh N 18.000.000 đồng.

[7] Bị cáo phải nộp tiền án phí và những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ: điểm c khoản 2 điều 175, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i, g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Cao Ngọc N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Cao Ngọc N 04 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ Ngày 13/8/2020.

2/ Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 589 Bộ luật dân sự.

- Buộc Cao Ngọc N bồi thường cho chị Lê Thị Cẩm L số tiền 18.796.000 đồng.

- Buộc Cao Ngọc N bồi thường cho anh Nguyễn Thành T3 số tiền 11.000.000 đồng.

- Buộc Cao Ngọc N bồi thường cho chị Nguyễn Đặng Thanh N số tiền 18.000.000 đồng.

Kể từ Ngày quyết định có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự.

3/ Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 Ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 2.389.000 án phí dân sự sơ thẩm.

4/ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 Ngày, kể từ Ngày tuyên án (20/01/2021), bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 Ngày kề từ Ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

321
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về