Bản án 09/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Trong ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công kH vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 258/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 255/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh năm 1995 tại Bình Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Quản lý quán M; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; Con ông: Nguyễn Ngọc L và bà Phạm Thị T; Chồng,con: không có; Tiền án: không; tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/7/2020 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 45 phút ngày 08/01/2020, Đội 6 – Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh kết hợp cùng Đoàn kiểm tra Liên ngành xã D, huyện Bình Chánh và Công an xã D, huyện Bình Chanh tiến hành kiểm tra các phòng số 302, 303 và 304 nhà nghỉ N địa chỉ D1/9B ấp 4, xã D, huyện Bình Chánh do Trần Thị Thanh D làm chủ thì phát hiện 03 cặp N, nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm gồm:

+ Phòng 302: Khách mua dâm là Nguyễn Văn H và gái bán dâm là Lê Thị Thanh Tr (sinh năm: 1996).

+ Phòng 303: Khách mua dam là Nguyễn Văn S và gái bán dâm là Lê Thị Thanh N (sinh năm: 1998).

+ Phòng 304: Khách mua dâm là Nguyễn H1 và gái bán dâm là Kim Thị Mỹ H2 (sinh năm: 1994).

Kết quả điều tra xác định:

Khong tháng 11/2019, Nguyễn Ngọc Bảo V vào làm quản lý tại quán Quán M địa chỉ D3/11A ấp 4, xã D, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh do Nguyễn Ngọc Y làm chủ. Nhiệm vụ của V là sắp xếp các tiếp viên lên phòng hát để phục vụ rót bia, chọn bài hát cho khách. Ngoài ra, quán có Huỳnh Hoài N làm nhiệm vụ trang điểm cho các tiếp viên. V làm quản lý một thơi gian thì biết Dương Thị Thanh Tr, Lê Thị Thanh N, Nguyễn Thị Mỹ T1 và Kim Thị Mỹ H2 có bán dâm cho khách. Lúc này, V thỏa Thuận khi nào có khách muốn mua dâm thì V sẽ môi giới cho Tr, N, T1 và H2 bán dâm cho khách với giá 2.000.000 đồng/01 người/01 lượt, gái bán dâm sẽ bán dâm và trực tiếp thu tiền của khách rồi trả cho V số tiền 200.000 đồng – 300.000 đồng/01 người/01 lượt môi giới, số tiền còn lại thì gái bán dâm lấy, Tr, N, T1và H2 đồng ý.

Khong 17 giờ ngày 05/01/2020, khi V đang làm quản lý tại quán thì Nguyễn Văn H và Nguyễn H1 đến thuê phòng hát karaoke và uống bia. H và H2 lên phòng hát và yêu cầu 02 tiếp viên lên phục vụ và bán dâm sau khi nhậu xong. V đồng ý và thỏa thuận giá bán dâm cho mỗi người là 2.000.000 đồng/01 người/01 lượt, H và H2 đồng ý nên V kêu Tâm và H2 lên phục vụ . Sau khi nhậu xong, H2 sang nhà nghỉ N bán dâm cho H1 xong và lấy 2.000.000 đồng rồi quay về quán đưa cho N 200.000 đồng để đưa lại cho V. Riêng T sang nhà nghỉ N bán dâm cho H nhưng không bán dâm được do H sợ T chưa đủ tuổi. T về quán đưa cho N 100.000 đồng. Sau đó, N đưa cho V 200.000, còn lại N giữ 100.000 đồng và tiêu xài hết.

Đến 18 giờ ngày 08/01/2020, H, H1 và Nguyễn Văn S cùng 02 người bạn (không rõ lai lịch) tiếp tục đến quán quán M thuê phòng hát. Khi đến quán , H gặp V thuê phòng 201 của quán và yêu cầu 05 tiếp viên lên phục vụ, trong đó H yêu cầu có 03 tiếp viên sẽ bán dâm cho H, H1 và S sau khi nhậu xong với giá 2.000.000 đồng/01 người/01 lượt. V đồng ý và dẫn 5 tiếp viên gồm: H2, N, Tr, N1 và N2 vào phòng để phục vụ. Khoảng 19 giờ cùng ngày, H cùng H1 và S qua nhà nghỉ N thuê phòng rồi báo cho V biết. Sau đó, V kêu Tr sang phòng 302 bán dâm cho H, N sang phòng 303 bán dâm cho S và H2 sang phòng 304 bán dâm cho H1. Đến 19h45 phút cùng ngày,khi tất cả đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện và đưa tất cả về trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Ngọc Bảo V đã kai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung nêu trên, phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn S, Nguyễn H1, Dương Thị Thanh Tr, Lê Thị Kim N, Kim Thị Mỹ H2, Nguyễn Thị Mỹ T và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng tạm giữ:

- 03 bao cao su đã qua sử dụng.

- 01 điện thoại di động Iphone 6S màu bạc cùng sim.

Tại bản cáo trạng số 182/CT-VKS ngày 05/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Bảo V về tội Môi giới mại dâmtheo điểm d, đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Bảo V từ 04 năm đến 05 năm tù về tội “Môi giới mại dâm”, buộc bị cáo nộp giao nộp lại số tiền thu lợi bất chính 200.000 đồng; xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc Bảo V khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Ngọc Bảo V đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Vì muốn có tiền tiêu xài và tăng thu nhập bị cáo đã môi giới cho các tiếp viên của quán Quán M địa chỉ D3/11A ấp 4, xã D, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh bán dâm với giá 2.000.000 đồng/1 lượt/1 người và bị cáo được hưởng lợi 200.000 đồng/1 lượt/1 người. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp lời kH của các gái bán dâm Dương Thị Thanh Tr, Kim Thị Mỹ H2, Nguyễn Thị Mỹ T, Lê Thị Thanh N và khách mua dâm ông Nguyễn Văn H và Nguyễn H1. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Ngọc Bảo V phạm tội “Môi giới mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 328 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Vào ngày 05/01/2020 bị cáo V đã có hành vi môi giới cho Nguyễn Thị Mỹ T, Kim Thị Mỹ H2 bán dâm cho ông Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H1. Ngày 08/01/2020 bị cáo V tiếp tục môi giới cho Lê Thị Thanh N, Dương Thị Thanh Tr, Kim Thị Mỹ H2 bán dâm cho Nguyễn Văn H1, Nguyên H và Nguyễn Văn S. Như vậy, hành vi của bị cáo V thuộc trường hợp phạm tội được thực hiện từ 02 lần trở lên và đối với 02 người trở lên, đây là tình tiết định khung trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được qui định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự trị an xã hội, đi ngược lại giá trị đạo đức, thuần phong, mỹ tục, nếp sống văn hóa của người phụ nữ Việt N. Trong lúc nhà nước ta đang ra sức phòng chống tệ nạn mại dâm đang là mối hiểm họa của xã hội thì bị cáo lại có hành vi chứa gái mại dâm trong quán của mình, để hưởng lợi bất chính. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm, đồng thời là điều kiện để lây lan nhiều căn bệnh hiểm nghèo, trong đó có căn bệnh HIV được xem là hiểm họa của nhân loại. Bị cáo nhận thức được điều này, nhưng do tính tư lợi cá nhân, muốn hưởng thụ trên thể xác của người khác mà không muốn lao động chân chính nên vẫn cố ý vi phạm. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này, cần có một mức án thật nghiêm, tiếp tục buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù thêm một thời gian nhất định để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Bị cáo thực hiện hành vi moi giới mại dâm từ 05/01/2020 nên có thu lợi bất chính từ hành vi với số tiền 200.000 đồng (H trăm ngàn đồng). Đây là tiền thu lợi bất chính nên buộc bị cáo giao nộp để tịch thu nộp N2 sách nhà nước.

[6] Đối với Huỳnh Hoài N: N cũng là nhân viên của quán karaoke, làm nhiệm vụ trang điểm cho tiếp viên đồng thời cũng là quản lý của quán Quán M. Bản thân N cũng nhiều lần môi giới cho các tiếp viên của quán đi bán dâm, N biết bị cáo V có môi giới cho. Ngày 05/01/2020 N có nhận từ tiếp viên Kim Thị Mỹ H2 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền bán dâm và đưa lại cho bị cáo V. Quá trình điều tra chưa làm rõ nhận thức của N khi nhận số tiền trên từ H2 có biết đó là tiền gì, khi H2 giao số tiền đó cho N thì có nói cho N biết là tiền gì không. Tòa án đã trả điều tra bổ sung yêu cầu Viện kiểm sát tiến hành lấy lời kH của H2, N và đối chất giữa N và H2, N và V để làm rõ vai trò trong việc nhận tiền môi giới để xem xét vai trò đồng phạm của N trong vụ án này để tránh bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, Viện kiẻm sát nhân dân huyện Bình Chánh có công văn số 01/CV-VKS ngày 15/12/2020 hoàn trả hồ sơ cho Tòa án với lý do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã tiến hành xác minh đối với Huỳnh Hoài N, Kim Thị Mỹ H2 nhưng cả H đã bỏ địa phương đi đâu không rõ. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng. Do đó, Hội đồng xét xử chưa có đủ căn cứ để xử lý đối với N.

[7] Đối với gái bán dâm Lê Thị Thanh N, Dương Thị Thanh Tr, Kim Thị Mỹ H2 và khách mua dâm Nguyễn Văn H1, Nguyễn H và Nguyễn Văn S: cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Bình Chánh đã ra quyết định xử phạt hành chính theo Nghị định số 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ.

[8] Đối với Nguyễn Thị Thanh D là quản lý của nhà nghỉ N và Nguyễn Ngọc Y là chủ quán Quán M: cả hai không biết và không tham gia vào việc môi giới mại dâm của V nên không có xử lý.

[9] Về vật chứng:

[10] - 03 bao cao su đã qua sử dụng, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.

[11] - 01 điện thoại di động Iphone 6S màu bạc cùng sim. Đây là tài sản của bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp N2 sách Nhà nước.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (H trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[13] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm truy tố của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo và chấp nhận đề nghị của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[14] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d, đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Bảo V 04 (bốn) năm tù về tội “Môi giới mại dâm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/7/2020.

Buộc bị cáo giao nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng tiền thu lợi bất chính đề tịch thu nộp ngân sách Nhà nước Về vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu và tiêu hủy: 03 bao cao su đã qua sử dụng.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 6S màu bạc cùng sim.

(Tất cả vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/11/2020 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh)

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo pH1 chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về