Bản án 09/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:09/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung K, sinh năm 1997, tại quận Cái Răng, TP. Cần Thơ. Nơi cư trú: Ấp Phú Thạnh, thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hoài Trung và bà Mai Thị L; anh chị em ruột: 01 người; tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 03/02/2021 bị Công an quận Cái Răng ra Quyết định khởi tố số 23 về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 26/01/2021 bị Tòa án nhân dân quận Cái Răng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quyết định số 06/2021/QĐ-TA. Bị cáo đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy TP.Cần Thơ, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Võ Văn T1, địa chỉ: Ấp Thạnh Lợi, xã Tân phú Thạnh, huyện Châu thành A tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Văn T, địa chỉ: Số 30/13, NVL, phường HL, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ. Vắng mặt

2. Bà Mai Thị L, địa chỉ: Ấp PT, thị trấn MD, huyện CT, tỉnh Hậu Giang.

Có mặt - Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị N, địa chỉ: Ấp TL, xã TPT, huyện CTA tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 06/12/2020, Nguyễn Trung K đi xe honda ôm từ thành phố Cần Thơ xuống nhà người thân tại xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A để chơi, đến đoạn đường nhà bà Nguyễn Thị N, K xuống xe rồi đi bộ. Khi đến trước nhà bà N, K thấy xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, biển kiểm soát 95E1-207.50 đang dựng trong sân, có sẵn chìa khóa nên K nảy sinh ý định lấy trộm xe. Nguyễn Trung K quan sát thấy không có ai coi xe nên đi lại dẫn xe đi rồi nổ máy chạy về hướng Cần Thơ. Trên đường đi, bị cáo K dừng lại mở cốp xe phát hiện bên trong có giấy đăng ký xe, chứng minh nhân dân và giấy bảo hiểm xe nên đã lấy ra cất giữ. Khi điều khiển xe đến tiệm cầm đồ Phong Đạt do ông Nguyễn Văn T làm chủ, K vào và hỏi cầm xe. Bị cáo K nói với ông Thành xe của người nhà nhờ đi cầm giùm nên ông Thành đồng ý cầm chiếc xe K trộm được với giá là 8.000.000đồng. Sau đó ông Thành lập hợp đồng cầm cố tài sản và giao tiền cho K và nhận giấy đăng ký xe, chứng minh nhân dân từ K. Sau khi nhận được tiền, bị cáo K đem tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 15/12/2020, bị cáo K bị Cơ quan cản sát điều tra Công an quận Cái Răng mời lên làm việc do có liên quan đến một vụ trộm khác trên địa bàn quận. Qua làm việc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cái Răng đã thu giữ 02 giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô biển kiểm soát 95E1-207.50 trên người K và thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A. Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Trung K đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên đồng thời tác động đến mẹ ruột bồi thường cho ông Nguyễn Văn T số tiền cầm xe là 8.000.000đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01/KL.ĐGTS ngày 22/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành A kết luận: Xe mô tô Yamaha hiệu Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 95E1-207.50 có giá trị 9.165.000đồng.

Tại Cáo trạng số 09/CT-VKS-HCTA ngày 19 tháng 3 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung K về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo K về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phân tích hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung K phạm tội "Trộm cắp tài sản", đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trung K từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Võ Văn T1 đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu bị cáo K bồi thường thêm.

Vật chứng trong vụ án gồm có:

- 01 xe mô tô Yamaha hiệu Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 95E1- 207.50; 01 giấy đăng ký xe biển kiểm soát 95E1-207.50 mang tên Võ Văn T1;

01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô biển kiểm soát 95E1-207.50, thời hạn sử dụng từ ngày 26/5/2020 đến ngày 26/5/2021; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô biển kiểm soát 95E1-207.50, thời hạn sử dụng từ ngày 26/5/2021 đến ngày 26/5/2022; 01 giấy chứng minh nhân dân số 363988033 tên Võ Văn T1. Những vật chứng nêu trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã trả lại cho chủ sở hữu là Võ Văn T1 nên không xem xét.

Đối với ông Nguyễn Văn T có hành vi cầm xe là tài sản do K phạm tội mà có nhưng khi cầm xe, ông Thành không biết chiếc xe K cầm là tài sản trộm cắp. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A không truy cứu đối với ông Thành. Đồng thời cũng đã có văn bản đề nghị Công an phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi của ông Nguyễn Văn T là phù hợp.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, bà Mai Thị L không yêu cầu bị cáo trả lại 8.000.000đồng bà đã bồi thường cho bị hại thay cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc khởi tố, điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A, việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị hại Võ Văn T1 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn T vắng mặt, tuy nhiên những người này đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến đường lối giải quyết vụ án. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, 293 xét xử vắng mặt đối với những người này.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về hành vi phạm tội: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Trung K đều thừa nhận hành vi bị cáo đã thực hiện. Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ có trong hồ sơ cũng như lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Từ đó, chứng minh được như sau: Vào khoảng 16 giờ ngày 06/12/2020, bị cáo Nguyễn Trung K đi xe ôm từ Cần Thơ T1 ấp Thạnh Lợi, xã Tân Phú Thạnh để đến nhà người quen. Khi T1 đoạn đường gần nhà bà Nguyễn Thị N, bị cáo xuống xe và đi bộ đến gần nhà bà N thấy trong sân trước nhà có dựng 01 xe mô tô Yamaha hiệu Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 95E1-207.50, bị cáo K đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên. Bị cáo K quan sát không thấy ai trong coi nên đã vào trong dắt xe ra ngoài và mở khóa xe nổ máy chạy về hướng Cần Thơ, đến tiệm cầm đồ Phong Đạt của ông Nguyễn Văn T, bị cáo K nói cầm xe cho người thân. Ông Nguyễn Văn T thấy xe có giấy tờ xe và chứng minh nhân dân của chủ xe nên đồng ý cầm xe với giá 8.000.000đồng và có lập hợp đồng cầm xe với Nguyễn Trung K. Sau khi nhận được tiền bán xe, K sử dụng số tiền cầm xe tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành A thì 01 xe mô tô Yamaha hiệu Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 95E1-207.50 bị cáo trộm được có giá trị là 9.165.000đồng. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, lợi dụng sự sơ hở của bị hại, lén lút lấy tài sản của bị hại. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo biết rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Vì vậy, hành vi của bị cáo K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2.2] Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng có hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 30/9/2020 tại phường Thường Thạnh, quận Cái Răng và đã bị Công an quận Cái Răng ra quyết định khởi tố vào ngày 03/02/2021; bị cáo còn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và đã bị Tòa án nhân dân quận Cái Răng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Điều này cho thấy tính xem thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[2.3] Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào sở cai nghiện bắt buộc tại Quyết định số 06/2021/QĐ-TA ngày 26 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ với thời hạn là 15 tháng. Căn cứ theo quy định tại Điều 117 Luật xử lý vi phạm hành chính, bị cáo được miễn chấp hành đối với biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện bắt buộc để chấp hành hình phạt tù theo quyết định của bản án.

[2.4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có tác động để gia đình bị cáo khắc phụ hậu quả, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo có bà ngoại là người có công với cách mạng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây được xem là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[2.5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Võ Văn T1 đã nhận lại tài sản mất trộm là 01 chiếc xe mô tô Yamaha hiệu Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 95E1- 207.50 và không yêu cầu bị cáo K bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.6] Về xử lý vật chứng trong vụ án: 01 xe mô tô Yamaha hiệu Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 95E1-207.50; 01 giấy đăng ký xe biển kiểm soát 95E1- 207.50 mang tên Võ Văn T1; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô biển kiểm soát 95E1-207.50, thời hạn sử dụng từ ngày 26/5/2020 đến ngày 26/5/2021; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô biển kiểm soát 95E1-207.50, thời hạn sử dụng từ ngày 26/5/2021 đến ngày 26/5/2022; 01 giấy chứng minh nhân dân số 363988033 tên Võ Văn T1. Những vật chứng nêu trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã trả lại cho chủ sở hữu là Võ Văn T1 nên không đặt ra xem xét.

[2.7] Về án phí: Bị cáo K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.8] Đối với ông Nguyễn Văn T có hành vi cầm cố xe là tài sản do K phạm tội mà có nhưng khi cầm xe, ông Thành không biết chiếc xe K cầm là tài sản trộm cắp. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A không truy cứu đối với ông Thành. Đồng thời cũng đã có văn bản đề nghị Công an phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi của ông Nguyễn Văn T trong việc cầm xe không chính chủ là phù hợp pháp luật. [2.9] Đối với số tiền cầm xe 8.000.000đồng bà Mai Thị L là mẹ của bị cáo đã trả lại cho ông Nguyễn Văn T, ông Thành đã nhận tiền và không có yêu cầu gì thêm, bà L cũng không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại nên không đặt ra xem xét.

[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A là có căn cứ, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các Điều 292, 293 Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung K 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Áp dụng Điều 117 Luật xử lý vi phạm hành chính, miễn chấp hành thời gian đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn lại đối với bị cáo Nguyễn Trung K kể từ ngày bị cáo Nguyễn Trung K chấp hành án.

3. Về vật chứng: Đã xử lý xong.

4. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Võ Văn T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Văn T, Mai Thị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

5. Về án phí: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH quy định về án phí lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Trung K phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Mai Thị L có quyền kháng cáo phần bản án liên quan T1 quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án và ông Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo phần bản án liên quan T1 quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về