Bản án 09/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Thanh Tùng L; tên gọi khác: L M; sinh năm 1995; nơi sinh: L Đồng; nơi đăng ký thường trú và cư trú: Thôn X, xã L, thành phố B, tỉnh L Đồng; văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Quốc T, sinh năm 1965 và bà Vũ Thị M, sinh năm 1965; cùng trú tại xã L, thành phố B, tỉnh L Đồng; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không. Tiền án: Bị cáo có 02 tiền án: Ngày 27/11/2015 bị TAND thành phố Bảo Lộc xử phạt 36 tháng tù về tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự; chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/02/2018; chưa được xóa án tích (bản án số 103/2015/HSST). Ngày 02/01/2019 bị TAND thành phố Bảo Lộc xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/01/2020; chưa được xóa án tích (bản án số 08/2019/HSST). Bị cáo tại ngoại (có mặt) Bị hại:

1/ Anh Vy Văn H, sinh năm 2001; địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

2/ Anh Lưu Minh T, sinh năm 2003; địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

3/ Anh Đào Văn P, sinh năm 2002; địa chỉ: Thôn Y, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Thanh Tùng L là đối tượng đã có 02 tiền án về các tội cướp tài sản và tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại phạm tội, cụ thể như sau:

Khoảng 04 giờ ngày 30/8/2020, Phan Thanh Tùng L mượn xe mô tô của anh Trương Thanh L sinh năm 1996, trú tại số 57 đường H, Phường I, thành phố B đi đến phòng trọ gặp người bạn tên T, ở hẻm 13 đường Phan Đình Giót, phường 1, thành phố Bảo Lộc để xin tiền chơi game. Đến nơi, L gõ cửa nhưng không thấy T mở cửa, L nhìn sang phòng trọ đối diện (phòng số 7) thì thấy cửa phòng mở hé nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Để thực hiện hành vi, L đến dùng tay đẩy cánh cửa phòng số 7 nhìn vào bên trong thì thấy anh Vy Văn H và Lưu Minh T đang ngủ. L vào phòng trộm cắp 01 ví da màu nâu của anh Vy Văn H, 01 ví da màu đen của anh Lưu Minh T để trên tủ lạnh, 01 chiếc túi đeo chéo, màu đen của anh Đào Văn P đang treo trên tường. Sau đó lên xe đi được khoảng 50m thì dừng lại, lấy chiếc túi xách ra kiểm tra thấy bên trong có 01 bịch khẩu trang y tế gồm 10 chiếc và 03 chiếc khăn lạnh, L đã vứt chiếc túi xách vào vườn cà phê đối diện với số nhà 13/3 đường Phan Đình Giót, Phường 1, thành phố Bảo Lộc. Sau đó L tiếp lấy chiếc ví da màu nâu kiểm tra và lấy ra 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Hoàng Thị T cùng số tiền 200.000 đồng. Lúc này thấy có người đi đến nên L đã vứt chiếc ví da (bên trong còn 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ) vào trong vườn cà phê rồi điều khiển xe mô tô đến quán gà ta Anh Thơ tại địa chỉ: Số 02, đường Đội Cấn, phường Lộc Sơn, thành phố Bảo Lộc do bà Lê Thị T làm chủ. Tại đây, L dùng 200.000 đồng mua 02 thẻ cào điện thoại, và lấy 20.000 đồng trong chiếc ví da màu đen để đổ xăng.

Sau đó, L điều khiển xe mô tô đến nhà anh Nguyễn Quốc B tại phường L, thành phố B. Tại đây, L lấy chiếc ví da màu đen kiểm tra thì thấy bên trong có 02 tờ 01 USD, 03 tờ tiền mệnh giá 10.000đ, 03 chứng minh nhân dân mang tên Vy Văn H, Võ Thị L và Đào Văn P, 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Anh N, 02 giấy chứng nhận bảo hiểm xe máy, 01 thẻ ATM của ngân hàng Agribank mang tên Vy Văn H. L cất toàn bộ tài sản, giấy tờ trên vào một chiếc bàn để trong phòng ngủ, rôi lấy 02 thẻ cào nạp tiền vào điện thoại chơi game. Đến ngày 01/9/2020, tại Công an phường 1, thành phố Bảo Lộc, L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp các tài sản cho Cơ quan Công an.

Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 154 ngày 09/11/2020 của Hội đồng định giá xác định: 01 tờ tiền mệnh giá 01 USD, số seri E141072581, năm 2003 trị giá 23.205 đồng; 01 tờ tiền mệnh giá 01 USD, số seri F77213811J, năm 2009, trị giá 23.205 đồng; 03 chiếc khăn lạnh trên có ghi “hải sản Phan Thiết" trị giá 4.500 đồng; 10 chiếc khẩu trang y tế hiệu “Gia Long” trị giá 15.000 đồng. Cộng với số tiền mặt thì tổng giá trị tài sản L chiếm đoạt là 515.910 đồng.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại cho anh Lưu Minh T 01 ví da màu đen, số tiền 30.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 01 USD. Trả lại cho anh Vy Văn H 03 chứng minh nhân dân, 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện, 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 thẻ ATM, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Hoàng Thị T. Trả lại cho anh Đào Văn P 01 túi da màu đen, 10 chiếc khẩu trang y tế, 01 Chứng minh nhân dân, 01 Đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Anh N. Đối với 01 tờ tiền mệnh giá 20.000đ, 01 chứng minh nhân dân của Lưu Minh T; 01 ví da màu nâu, 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ của anh Vy Văn H, 03 chiếc khăn lạnh của anh anh Đào Văn P, do bị cáo L vứt bỏ và tiêu xài nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Đào Văn P, anh Lưu Minh T và anh Vy Văn H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKSBL, ngày 06 tháng 01 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc đã truy tố bị cáo Phan Thanh Tùng L về tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Phan Thanh Tùng L từ 15 đến 18 tháng tù. Xét bị cáo không có nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung. Bị cáo L khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nêu, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì về nội dung Cáo trạng, thấy đúng với tội của mình, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến thắc mắc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng qui định của pháp luật

[2] Về căn cứ xác định tội: Tại phiên toà, bị cáo Phan Thanh Tùng L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, nhân chứng, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định: Vào ngày 30/8/2020, tại phòng trọ số 7 hẻm 13 đường Phan Đình Giót, Phường 1, thành phố Bảo Lộc, bị cáo L đã đã có hành vi lén lút bí mật chiếm đoạt tài sản của các anh Đào Văn P, Lưu Minh T và Vy Văn H, có tổng giá trị là 515.910 đồng. Tuy giá trị tài sản chiếm đoạt không lớn nhưng bị cáo L là người đã có tiền án về tội chiếm đoạt nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bảo lộc đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng trong quyết định truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội: Bị cáo L là người có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì muốn có tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần lên cho bị cáo một hình phạt nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo L là người có nhân thân xấu, vào ngày 27/11/2015 đã bị TAND thành phố Bảo Lộc xử phạt 36 tháng tù về tội cướp tài sản; đến ngày 02/01/2019 lại bị TAND thành phố Bảo Lộc xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, đến nay chưa được xóa án tích lại phạm tội. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Trong vụ án này còn có anh Trương Thành L là người đã cho bị cáo L mượn xe mô tô; bà Lê Thị T là người đã bán Card điện thoại và xăng cho bị cáo. Tuy nhiên cả anh L và bà T đều không biết bị cáo L sử dụng xe mô tô để trộm cắp và sử dụng tiền do phạm tội mà có để mua hàng hóa; do đó không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh L và bà T trong vụ án này là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ sau đó trả lại tài các sản cho các bị hại nên không đề cập đến.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đào Văn P, anh Lưu Minh T và anh Vy Văn H không yêu cầu gì nên không đề cập đến.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo L không có nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố, bị cáo Phan Thanh Tùng L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Phan Thanh Tùng L 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh L Đồng xét xử phúc thẩm. Đối với người vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về