Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 46/2020/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXX-ST ngày 15 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị L - SN 1980 “Có mặt” Địa chỉ: SN 04/37 Tản Đà, phường S, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng Q- SN 1977 “ vắng mặt”; Địa chỉ : SN 20/312 Bà Triệu, phường T, Thành phố T , tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Trọng Q kết hôn với nhau năm 2005 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Do mâu thuẫn căng thẳng nên anh chị đã sống ly thân nhau từ đầu năm 2020 cho đến nay. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Q.

Về con: Anh chị có 02 con chung: Cháu Nguyễn Trọng Vương V, sinh ngày 14/9/2006 và cháu Nguyễn Trọng T1, sinh ngày 06/11/2009 . Ly hôn, chị xin được nuôi cháu Nguyễn Trọng Vương V và giao cháu Nguyễn Trọng T1 cho anh Q nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp L các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Trọng Q theo quy định của pháp luật nhưng anh Q không đến Tòa án để tự khai, tham gia phiên họp và hòa giải cũng như phiên tòa.

Tại phiên tòa hôm nay chị L vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày và không có ý kiến bổ sung gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và việc chấp hành của nguyên đơn, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tống đạt hợp L các văn bản tố tụng cho anh Q để tham gia phiên tòa nhưng anh Q vắng mặt, Tòa án tiền hành xử vắng mặt là đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, bị đơn cư trú tại Thành phố T. Do vậy Tòa án Thành phố T thụ lý, giải quyết là đúng quy định theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Mặc dù đã được tòa án đã triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng anh Q vắng mặt không có lý do. Chị L đề nghị Tòa án tiến hành xét xử. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của BLTTDS giải quyết vắng mặt anh Q là đúng quy định.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Trọng Q và chị Lê Thị L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện,có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án chị L khai vợ chồng chung sống có xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân nhau. Kết quả thu thập chứng cứ tại địa phương thể hiện: quá trình anh chị chung sống đã có mâu thuẫn, vợ chồng liên tục xảy ra cãi vã, đánh nhau gây mất trật tự trị an khu phố, tổ dân phố đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả.

Hiện nay anh Q và cháu T1 đã chuyển về nhà nội sống, còn chị L chuyển đi nơi khác sống cùng cháu V.

Mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp L các văn bản tố tụng cho anh Q lên Tòa án giải quyết nhưng anh Q đều vắng mặt. Điều đó cho thấy anh không có thiện chí để giải quyết mâu thuẫn vợ chồng. Tại phiên tòa chị L vẫn tha thiết xin ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị cũng đã kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, nếu có về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể cải thiện được. Do đó căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn với anh Q là phù hợp.

[3] Về con:Anh chị có 02 con chung. Từ khi anh chị sống ly thân, cháu V ở với chị L, cháu T1 ở với anh Q. Chị L và anh Q vẫn nuôi dạy các cháu đảm bảo về mọi mặt. Hiện nay chị L và anh Q đều có công việc ổn định. Do đó giao cháu V cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T1 cho anh Q nuôi và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí:Chị L phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luât tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/QH14.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b, khoản 2 Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 273 BLTTDS. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí L phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Trọng Q.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Trọng Vương V, sinh ngày 14/9/2006 và cháu Nguyễn Trọng T1, sinh ngày 06/11/2009 là con chung của anh Q và chị L. Giao cháu Nguyễn Trọng Vương V cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Trọng T1 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Q, chị L có Q đi lại thăm nom con chung, không được ai cản trở.

Về tài sản, công nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí: Chị Lê Thị L phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị đã nộp theo biên lai số AA/2018/0001552 ngày 21/10/2020 tại chi cục Thi hành án dân sự Thành phố T (chị L đã nộp đủ án phí).

Chị L có Q kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Q có Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về