Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 02/02/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2020/TLST-HNGĐ ngày 04/11/2020 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 31/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021 ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị Ch, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Bản Cá, xã Quài C, huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên, có mặt. Chỗ ở hiện nay: Bản C, xã Quài N, huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên.

2. Bị đơn: Anh Lò Văn L, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Bản C, xã Quài C, huyện T G, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/11/2020, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lò Thị Ch trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lò Văn Long lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 28/3/2014 tại Ủy ban nhân dân xã Quài C, huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên. Hôn nhân là tự nguyện không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Do nguyên nhân anh L không tu chí làm ăn, không quan tâm, chăm lo đến gia đình mà thường xuyên uống rượu, về nhà thì đánh đập và gây thương tích nhỏ. Chị đã khuyên bảo nhiều lần song anh L không thay đổi khiến cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, hôn nhân giữa chị và Anh L không có hạnh phúc. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ tại bản C, xã Quài N, huyện Tuần G từ tháng 7 năm 2020, chị và anh L cũng sống ly thân từ đó cho đến nay. Từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai nữa, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh L.

Về quan hệ con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Lò Minh Th, sinh ngày 18/10/2014, hiện cháu đang ở với ông bà Nội. Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Th đến khi thành niên và không yêu cầu anh L cấp dưỡng. Về điều kiện nuôi con: Chị làm giáo viên với mức thu nhập 6.861.000/tháng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Không có.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho anh L, tại bản tự khai ngày 05/11/2020, anh L cho rằng trong thời gian anh đi làm ăn xa chị Chít đã tự ý bỏ nhà về nhà bố mẹ đẻ, anh đã khuyên bảo nhiều lần để chị Ch quay về nhưng chị Ch không quay lại, anh mong muốn đoàn tụ gia đình. Quan điểm của anh nếu vợ anh vẫn kiên quyết ly hôn thì anh yêu cầu chị Ch phải trả anh tiền chi phí cưới hỏi với số tiền là 45.000.000 đồng Về con chung: Anh có đề nghị được nuôi cháu Lò Minh Th, yêu cầu chi Ch cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/1 tháng.

Về quan hệ tài sản: Anh khai không có.

Ngày 05/11/2020, Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã ra Thông báo số 01/TB - TA ngày 05/11/2020 về yêu cầu bổ sung đơn phản tố và cung cấp tài liệu chứng cứ cho yêu cầu phản tố đòi số tiền 45.000.000 đồng. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Thông báo này, anh L vẫn không đến Tòa án làm các thủ tục theo quy định. Ngày 23/11/2020, Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã ra Thông báo số 28/TB - TA ngày 23/11/2020 trả lại yêu cầu phản tố cho anh L và đã thực hiện việc tống đạt và niêm yết theo quy định của pháp luật, hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày thực hiện việc niêm yết, anh L không có ý kiến gì.

Ngày 14/12/2020, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Về quan hệ hôn nhân: Anh thừa nhận về quan hệ hôn nhân có đăng ký kết hôn như chị Ch trình bày. Tuy nhiên anh không nhất trí ly hôn mặc dù anh chị đã ly thân từ tháng 7 năm 2020 cho đến nay. Anh yêu cầu chị Ch phải trả lại số tiền ăn hỏi, cưới xin thì anh mới đồng ý ly hôn. Về con chung: Nếu phải ly hôn anh đề nghị xin được nuôi cháu Lò Minh Th và yêu cầu chị Ch cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 3.000.000 đồng/tháng.

Về quan hệ tài sản: Anh thống nhất như ý kiến chị Ch là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến bà Lò Thị X là mẹ đẻ của anh Lò Văn L tại (BL số 58) về phần liên quan đến cháu Lò Minh Th, hiện cháu đang ở với bà: Bà không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Ngày 15/01/2021, Tòa án nhân dân huyện Tuần G mở phiên tòa xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/12/2020 và niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, anh L vắng mặt lần thứ nhất không có lý do. Tòa án đã hoãn phiên tòa theo luật định, Tòa án tiến hành niêm yết công khai quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-DS ngày 15/01/2021.

Tại phiên tòa ngày 02/02/2021, chị Lò Thị Ch vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện, bản tự khai, anh L vắng mặt lần 2 không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho nguyên đơn chị Lò Thị Ch được ly hôn với anh Lò Văn L theo Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình: Giao cháu Lò Minh Th, sinh ngày 18/10/2014 cho chị Lò Thị Ch chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động, chấp nhận việc chị Ch không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con. Về quan hệ tài sản: Không có Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Ch là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí, đề nghị HĐXX miễn án phí DSST cho chị Lò Thị Ch.

Về kiến nghị: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần G theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị Ch và anh Lò Văn L kết hôn ngày 28/3/2014 đến thời điểm giải quyết, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đang có hiệu lực, do vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về việc hoãn phiên tòa: Ngày 15/01/2020, Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án song bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa.

[4]. Về yêu cầu phản tố của anh L: Sau khi có yêu cầu phản tố đòi chị Ch trả tiền cưới hỏi với số tiền 45.000.000 đồng, Tòa án đã yêu cầu anh L sửa đổi bổ sung đơn phản tố và cung cấp các tài liệu chứng cứ cần thiết cho yêu cầu phản tố của mình song hết thời hạn quy định anh L không đến Tòa án làm thủ tục theo quy định. Ngày 23/11/2020 Tòa án đã ra Thông báo số 28/TB- TA ngày 23/11/2020 trả lại yêu cầu phản tố cho anh L và đã thực hiện việc tống đạt và niêm yết theo quy định của pháp luật, hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày thực hiện việc niêm yết, anh Long không có ý kiến gì. Do vậy Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã tiếp tục giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp.

[5] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ch và anh L lấy nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Lò Thị Ch: Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự trong đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án: Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại Bản C, xã Quài C, huyện Tuần Giáo (BL 40), lời khai của bà Lò Thị X là mẹ đẻ anh Long (Bl 58) đủ cơ sở khẳng định: Sau khi kết hôn vào năm 2014, chị Ch và anh L chung sống tại nhà nhà bố mẹ đẻ anh L, hôn nhân chỉ hạnh phúc được hơn một năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh L chơi bời, không tu chí làm ăn, suốt ngày uống rượu, có đánh đập chị gây thương tích nhỏ. Chị đã khuyên bảo nhiều lần song không có kết quả khiến chị không còn tình cảm gì với anh L nữa. Từ khi ly thân từ tháng 7 đến nay anh chị không có quan hệ và sinh lý và tình cảm gì. Từ những phân tích và nhận định trên đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn là có thật, anh L đã không làm đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của người chồng, người cha trong gia đình. Mục đích xây dựng cuộc sống hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị Ch xin ly hôn với anh L cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[6] Về con chung: Anh chị đều thống nhất anh chị có 01 con chung: Cháu Lò Minh Th, sinh ngày 18/10/2014. Quan điểm chị Ch xin được nuôi cháu Lò Minh Th đến khi thành niên và có khả năng lao động, chị Ch không yêu cầu anh L cấp dưỡng, anh Long cũng có quan điểm nếu phải ly hôn anh cũng xin được nuôi cháu Th và yêu cầu chị Ch cấp dưỡng 3.000.000 đồng/01 tháng.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của chị Chít tại phiên tòa: Chị Ch là giáo viên có thu nhập và nơi ở ổn định, có đủ điều kiện để có thể chăm sóc, nuôi dưỡng con chung với điều kiện tốt hơn anh L, HĐXX căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình: Quyết định chấp nhận ý kiến của chị Lò Thị Chít, giao cháu Lò Minh Th, sinh ngày 18/10/2014 cho chị Ch trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động, chấp nhận sự tự nguyện chị Ch không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Anh L không có nghề nghiệp ổn định sẽ không có đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con chung.

[7]. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Chị Ch và anh L đều khai: Không có.

[8]Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Ch thuộc diện được miễn án phí, HĐXX miễn án phí DSST cho chị Lò Thị Ch.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Nguyên đơn chị Lò Thị Ch được ly hôn với bị đơn anh Lò Văn L.

2. Về con chung: Giao cháu Lò Minh Th, sinh ngày 18/10/2014 cho chị Lò Thị Ch trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động, chấp nhận sự tự nguyện, chị Ch không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về: Không có.

4. Về án phí DSST: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí DSST cho chị Lò Thị Ch.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị Ch được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 02/02/2021; Anh Lò Văn L được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về