Bản án 09/2020/HS-ST ngày 21/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 21/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 21/01/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2020/QĐXXST - HS, ngày 03 tháng 02 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Dương Văn T, sinh năm: 1971 (tên gọi khác: Không) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm N, T huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hoá: 2/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Con ông Dương Văn T, sinh năm: 1945 và bà Ngọc Thị T, sinh năm: 1947; Địa chỉ: Xóm N, xã T, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên;

Gia đình có 6 anh, chị, em, bị cáo là con thứ ba và chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/11/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên và có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Đặng Văn T, sinh ngày 20 tháng 04 năm: 1981 Tên gọi khác: Không Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm , xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hoá: 5/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Con ông: Đặng Văn M (Đã chết) và bà: Cù Thị N, sinh năm: 1946 Vợ: Lê Thanh T, sinh năm: 1982 Trú tại: Xóm , xã V huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Và có 02 con: Lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2010.

Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình.

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/11/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên và có mặt tại phiên tòa;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thanh T, sinh năm 1982 (Có mặt).

Địa chỉ: Xóm , xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên;

Người làm chứng: Anh Nguyễn Quý T, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Địa chỉ: Xóm xã C, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 30 ngày 04/11/2019 tổ công tác Công an huyện Đại Từ phối hợp với Công an xã C, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên tiến hành tuần tra kiểm soát tại khu vực cánh đồng thuộc xóm xã C, huyện Đại Từ phát hiện 02 người đàn ông có biểu hiện tàng trữ chất ma túy trái phép. Tổ công tác tiếp cận 02 người đàn ông tự khai nhận là Dương Văn T và Đặng Văn T, rồi Thủy tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói chất bột màu trắng được gói bằng giấy màu trắng, loại giấy vở học sinh (T và T khai nhận đó là ma túy Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tín và Thủy, thu giữ vật chứng là: 01 gói chất bột màu trắng nếu trên (niêm phong vào phong bì ký hiệu G); 01 bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy một mặt (niêm phong vào phong bì ký hiệu T); 01 điện thoại di động nhân hiệu Itel vỏ màu đen - xám đã qua sử dụng (niêm phong vào phong bì ký hiệu D); 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave S màu đỏ - bạc, BKS: 20F1 - 036.20 và chuyển toàn bộ hồ sơ, đối tượng cùng vật chứng đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Đại Từ để giải quyết theo thẩm quyền.

Hồi 16 giờ 00 phút ngày 05/11/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đại Từ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, địa điểm, phương tiện đối với: Dương Văn T tại xóm N, xã T, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, kết quả không thu giữ gì.

Hồi 10 giờ 00 phút ngày 05/11/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đại Từ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, đại điểm, phương tiện đối với Đặng Văn T tại xóm , xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, kết quả không thu giữ gì.

Hồi 01 giờ 30 phút ngày 05/11/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đại Từ phối hợp với phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong và cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của T và T là: 0,116 gam và niêm phong ký hiệu G1 gửi giám định.

Tại kết luận giám định số: 1448/KL-KTHS ngày 13/11/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu G1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,116 gam.

Tại cơ quan điều tra Đặng Văn T và Dương Văn T khai nhận như sau: T và T đều là đối tượng nghiện ma túy cùng làm thợ xây tại khu vực phường T, thành phố Thái Nguyên nên quen biết nhau, khoảng 18 giờ 30 phút ngày 04/11/2019, T điều khiển xe mô tô BKS: 20F1- 036.20 (là xe của vợ là chị Lê Thanh T, sinh năm: 1982; Trú tại: Xóm, xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) chở Dương Văn T đi từ phường T, thành phố Thái Nguyên về nhà T chơi. Trên đường đi cả hai rủ nhau mua ma túy (Heroine) để sử dụng. Sau đó, T lấy điện thoại có lắp sim điện thoại số thuê bao 0978 299 073 gọi đến số thuê bao 0382.777.653 của một người đàn ông tên Th nhà ở khu vực B thuộc xã C, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên (T không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể của Th) để hỏi mua ma túy của Th, Th đồng ý và hẹn T đến khu vực cổng nhà máy gạch Tl thuộc xóm xã C, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên để giao dịch. Khi đến nơi T và T gặp người đàn ông tên Th khoảng 50 - 55 tuổi đang đứng đợi ở rìa đường, T bảo T đưa tiền cho Th, T đưa cho Th 250.000đồng. Th đưa cho T 01 gói Heroine được gói bằng giấy màu trắng (loại giấy vở học sinh). Sau khi mua được Heroine, T và T đi đến khu vực cánh đồng thuộc xóm , xã C để sử dụng. Khi T đang lấy một phần Heroine để chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác tác Công an huyện Đại Từ phối hợp với Công an xã C phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Lời khai nhận của Dương Văn T, Đặng Văn T phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định...

Vật chứng của vụ án gồm:

- 03 phong bì ký hiệu G1, G2, T còn nguyên vẹn; 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen - xám, có ốp lưng màu xanh đã qua sử dụng hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của chi cục Thi hành án dân sự huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên chờ xử lý.

- 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave S, sơn màu đen - xám BKS: 20F1 - 036.20. Quá trình điều tra xác định là xe của chị Lê Thanh T, việc T sử dụng xe mô tô của chị T để làm phương tiện đi mua ma túy chị T không biết nên Cơ quan CSĐT đã trả chiếc xe mô tô cho chị T quản lý, sử dụng. Chị T không có yêu cầu gì khác.

Bản cáo trạng số 05/CT-VKSĐT ngày 21/01/2020 của Viện kiểm sát nhân huyện Đại Từ đã truy tố các bị cáo Dương Văn T và Đặng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Kết thúc phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng, đã luận tội đối với các bị cáo và đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Dương Văn T và Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của BLHS năm 2015; Điều 106, 136 BLTTHS: Nghị quyết 326/QH14.

Xử phạt bị cáo Dương Văn T, Đặng Văn T cùng từ 15 đến 18 tháng tù Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo do các bị cáo làm ruộng, thu nhập không ổn định.

Xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh tụng, các bị cáo thừa nhận việc truy tố và xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai, các bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đại Từ, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Dương Văn T và Đặng Văn T khai nhận: T và T đều là đối tượng nghiện ma túy cùng làm thợ xây nên quen biết nhau, khoảng 18 giờ 30 phút ngày 04/11/2019, T điều khiển xe mô tô BKS: 20F1- 036.20 (là xe của vợ là chị Lê Thanh T) chở Dương Văn T đi từ phường T, thành phố Thái Nguyên về nhà T chơi. Trên đường đi cả hai rủ nhau mua ma túy (heroine) để sử dụng. Sau đó T lấy điện thoại có lắp sim điện thoại số thuê bao 0978 299 073 gọi đến số thuê bao 0382.777.653 của một người đàn ông tên Th nhà ở khu vực B thuộc xã C, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên để hỏi mua ma túy của Th, Th đồng ý và hẹn T đến khu vực cổng nhà máy gạch Tuynel thuộc xóm , xã C, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên để giao dịch. Khi đến nơi T và T gặp người đàn ông tên Th khoảng 50 - 55 tuổi đang đứng đợi ở rìa đường, T bảo T đưa tiền cho Th, T đưa cho Th 250.000đồng. Th đưa cho T 01 gói Heroine được gói bằng giấy màu trắng. Sau khi mua được Heroine, T và T đi đến khu vực cánh đồng thuộc xóm , xã C để sử dụng. Khi T đang lấy một phần Heroine để chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác tác Công an huyện Đại Từ phối hợp với Công an xã C phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng, số Heroine T, T tàng trữ có khối lượng 0,116 gam.

Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thanh T: Tôi là vợ anh T, chồng tôi anh T có sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S, sơn màu đen - xám BKS: 20F1 - 036.20 để đi làm thợ xây tại khu vực thành phố Thái Nguyên có bị cơ quan công an bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị tạm giữ phương tiện là xe mô tô, tuy nhiên xe mô tô trên là của tôi, tôi không biết việc anh T sử dụng xe đi mua ma túy, sau khi anh T bị tạm giữ phương tiện, Cơ quan công an đã trả lại xe cho tôi quản lý và sử dụng, tôi không ý kiến và không đề nghị gì khác.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong - xác định khối lượng, kết luận giám định...

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 04/11/2019 tại khu vực cánh đồng thuộc xóm xã C, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Dương Văn T và Đặng Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,116 gam (không phẩy một một sáu) gam chất ma túy loại Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang thu giữ vật chứng. Hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Nội dung điều luật n sau:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” [3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý độc dược của nhà nước nói chung và chất ma túy nói riêng, hành vi đó không những làm ảnh hưởng tới sức khỏe của con người mà còn ảnh hưởng và suy hao đến kinh tế là một trong những nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nên cần xử lý nghiêm minh mới bảo đảm tính răn đe của pháp luật và mang tính phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Xét tình tiết tiết giảm nhẹ TNHS thì thấy: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Các bị cáo xuất thân từ nhân dân lao động nhưng bị cáo không phát huy được bản chất sẵn có của người lao động để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành công dân có ích cho xã hội mà bị cáo lao vào con đường nghiện ma túy, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.

[7] Xét vai trò của các bị cáo thì thấy bị cáo T là người trực tiếp dùng tiền của mình để mua ma túy sử dụng nên bị cáo phải chịu trách nhiệm chính, bị cáo T là người giao dịch việc mua ma túy nên bị cáo chịu trách nhiệm với vai trò đồng phạm.

[8] Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân, vai trò của bị cáo, HĐXX cần xử phạt bị cáo T mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù, bị cáo T từ 15 đến 18 tháng tù và buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian có như vậy mới đủ để cải tạo và giáo dục các bị cáo đồng thời mang tính phòng ngừa chung là phù hợp.

[9] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T đang nuôi 02 con nhỏ và mẹ già, bị cáo T là người dân tộc, hành vi phạm tội của các bị cáo chỉ nhằm mục đích sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, thu lời bất chính, các bị cáo không thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[10] Vật chứng: 03 phong bì ký hiệu G1, G2, T còn nguyên vẹn có chữ ký của các thành phần tham gia và đóng dấu của Công an tỉnh Thái Nguyên, Công an huyện Đại Từ cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen - xám, có ốp lưng màu xanh đã qua sử dụng thu giữ của T là điện thoại bị cáo Thủy sử dụng để giao dịch mua ma túy cần tịch thu sung công.

Về nguồn gốc Heroine Dương Văn T, Đặng Văn T khai mua của một người đàn ông tên Th (không rõ lai lịch) tại khu vực cổng nhà máy gạch T thuộc xóm , xã C , huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, do không xác định được lai lịch, tuổi và địa chỉ của Th nên Cơ quan CSĐT không có cơ sở để điều tra xử lý.

- 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave S, sơn màu đen - xám BKS: 20F1 - 036.20. Quá trình điều tra xác định là xe của chị Lê Thanh T, việc bị cáo T sử dụng xe mô tô của chị T để làm phương tiện đi mua ma túy chị T không biết nên Cơ quan CSĐT đã trả chiếc xe mô tô cho chị Thúy quản lý, sử dụng là phù hợp nên HĐXX không xem xét.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật nộp ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106, Điều 136 và Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Dương Văn T, Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Dương Văn T 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 05/11/2019. Quyết định tạm giam bị cáo T 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo việc thi hành án.

Bị cáo Đặng Văn T 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 05/11/2019. Quyết định tạm giam bị cáo T 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo việc thi hành án.

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 03 phong bì ký hiệu G1, G2, T còn nguyên vẹn có chữ ký của các thành phần tham gia và đóng dấu của Công an tỉnh Thái Nguyên, Công an huyện Đại Từ.

Tịch thu sung công 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen - xám, có ốp lưng màu xanh đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Thủy để đảm bảo việc thi hành án (tình trạng theo quyết định chuyển vật chứng số 01/QĐ-VKS ngày 02/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ).

Về án phí: Buộc các bị cáo Dương Văn T và Đặng Văn T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách Nhà nước.

Báo cho các bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 09/2020/HS-ST ngày 21/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về