Bản án 09/2020/HS-ST ngày 20/03/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 20/03/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20/3/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Đỗ Văn N, sinh năm 1998 tại xã P, huyện P, thành phố H; nơi cư trú: Cụm 4, xã P, huyện P, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 8; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn H và bà Dương Thị V; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, hiện đang cai nghiện tự nguyện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 7, xã X, thị xã V. “có mặt”

Bị hại: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1997. “vắng mặt”

Địa chỉ: Thôn D, xã P, huyện D, Thành phố H

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Cấn Văn L, sinh năm 1992. “vắng mặt”

Địa chỉ: Cụm 3, xã P, huyện P, thành phố H

2. Ông Đỗ Văn H, sinh năm 1968. “có mặt”

Địa chỉ: Cụm 4, xã P, huyện P, thành phố H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Văn N và anh Nguyễn Văn V quen biết nhau trong thời gian phục vụ trong quân đội và đều đã xuất ngũ.

Ngày 13/9/2019, Đỗ Văn N cùng anh Nguyễn Văn V, anh Trần Minh Công, anh Nguyễn Hữu Tuấn là những người bạn cùng đơn vị cũ, cùng đi ăn cưới một người bạn ở huyện Thạch Thất, thành phố H. Sau khi ăn xong, Đỗ Văn N rủ mọi người về quán karaoke Anh Phương ở cụm 2, xã P, huyện P, thành phố H để hát. Tại đây, biết anh V đi xe máy một mình và do cần tiền tiêu sài cá nhân nên N đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy của anh V để đem đi cầm cố. N nói với anh V cho N mượn xe đi về nhà ở gần đó có việc. Do tin tưởng N nên anh V đồng ý giao xe máy cho N. Mượn được xe máy, N đi chơi, không quay lại trả xe cho anh V như đã giao hẹn. Sáng hôm sau, N mang chiếc xe máy này đến cầm cố cho anh Cấn Văn Lực ở cụm 2, xã P, huyện P lấy số tiền 7.000.000đ (bảy triệu đồng). Đến chiều cùng ngày, N lại bảo anh Lực đưa thêm 2.000.000đ (hai triệu đồng). Toàn bộ số tiền này, N chi tiêu cá nhân hết. Anh V nhiều lần gọi điện thoại cho N nhưng không liên lạc được nên ngày 15/9/2019 đã đến Công an huyện P trình báo sự việc.

Ngày 21/10/2019 V đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận:

Chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA loại R15 màu sơn xanh của anh V bị N chiếm đoạt trị giá 38.000.000đ (ba mươi tám triệu đồng).

Ti bản cáo trạng số 10/CT-VKSPT ngày 30/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Đỗ Văn N về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị V đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Đỗ Văn N từ 09 đến 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, V đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn N khai: Ngày 13/9/2019, do cần tiền chi tiêu cá nhân nên N đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy của anh Nguyễn Văn V để đem đi cầm cố. N nói với anh V cho N mượn xe đi về nhà ở gần đó có việc. Sau khi mượn được xe máy, N đi chơi đến sáng hôm sau mang đến cầm cố cho anh Cấn Văn Lực lấy tổng số tiền 9.000.000đ rồi ăn tiêu hết.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người liên quan, người làm chứng và phù hợp với vật chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Bằng thủ đoạn gian dối, ngày 13/9/2019 tại quán karaoke Anh Phương ở cụm 2, xã P, huyện P, Đỗ Văn N đã giả vờ hỏi mượn anh Nguyễn Văn V chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại R15 màu sơn xanh trị giá 38.000.000đ rồi rồi mang đi cầm cố lấy tiền ăn tiêu hết. Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn, hành vi đó của Đỗ Văn N đã cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo về tội danh trên là có căn cứ.

Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định, đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã V, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân. Vì vậy cần cách ly bị cáo khỏi xã V một thời gian để cải tạo, giáo dục. Tuy nhiên, khi lượng hình, V đồng xét xử cũng xem xét: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[2]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp nên không phạt hình phạt bổ sung.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì khác; anh Cấn Văn L đã nhận lại số tiền cho N cầm cố xe máy; ông Đỗ Văn H (bố đẻ của bị cáo) tự nguyện nộp tiền bồi thường thay bị cáo và không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền này nên Tòa án không xem xét.

[4]. Về án phí: Buộc bị cáo Đỗ Văn N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5]. Về đề nghị của Kiểm sát viên đối với vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị V đồng xét xử tuyên phạt bị cáo về mức hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Đối với anh Cấn Văn L là người cho Đỗ Văn N cầm cố chiếc xe môtô của anh Nguyễn Văn V nhưng anh Lực không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chỉ nhắc nhở để phòng ngừa tội phạm.

[7]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Xét thấy Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng và đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng đều hợp pháp, đảm bảo việc điều tra, truy tố vụ án đúng quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự Tuyên bố Đỗ Văn N phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản Xử phạt: Đỗ Văn N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án Bị cáo Đỗ Văn N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

n cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HS-ST ngày 20/03/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về