Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 08/04/2020 về tranh chấp ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 08 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 50/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 96/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Diễm T, sinh năm 1975; địa chỉ cư trú: 606/26, ấp T, xã T, huyện S, tỉnh An Giang (vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Seo Gwang S, sinh năm 1977; địa chỉ cư trú: Số 21 S, G, Gyeongsangbuk-do, Republic of Korea (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai cùng đề ngày 28/6/2019, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Diễm T (sau đây gọi tắt là bà T) trình bày:

Bà và ông Seo Gwang S xác lập quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận quan hệ hôn nhân do Văn phòng Sinnyeong-myeon, Yeongcheonsi, Gyeongsangbuk-do – Cộng Hòa Hàn Quốc cấp ngày 24/4/2012 và được Sở Tư pháp tỉnh An Giang cấp Giấy xác nhận về việc đã ghi chú vào sổ các việc hộ tịch đã đăng ký trước cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ngày 10/9/2012. Sau khi kết hôn được một thời gian, vợ chồng không liên lạc với nhau đến nay. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Seo Gwang S.

Về con chung: Không có; về tài sản chung và nợ chung: Không có. Bà có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tòa án đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp đối với bị đơn ông Seo Gwang S cư trú tại Hàn Quốc, cụ thể: Gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án; Lịch làm việc của Tòa án. Văn bản ủy thác tư pháp đã được Bộ Tư pháp gửi đến Cục Quản lý Tòa án quốc gia, Đại Hàn Dân Quốc. Tuy nhiên, đến ngày mở phiên tòa, Tòa án không nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền về kết quả thực hiện việc tống đạt cho ông Seo Gwang S.

Ông Seo Gwang S cũng không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Bà T cư trú tại huyện S, tỉnh An Giang, Việt Nam; ông Seo Gwang S cư trú tại Hàn Quốc. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 2 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 40 và điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Vụ án không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang không tham gia phiên tòa sơ thẩm.

[1.3] Bà T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; ông Seo Gwang S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên xem như ông Seo Gwang S từ bỏ quyền của mình tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà T và ông Seo Gwang S.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà T và ông Seo Gwang S tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn vào năm 2012 đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông Seo Gwang S được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Từ ngày bà T nộp đơn yêu cầu ly hôn đến ngày mở phiên tòa, ông Seo Gwang S không liên lạc với bà T, ông Seo Gwang S vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T. Điều đó đã thể hiện ý chí của ông Seo Gwang S không còn tình cảm vợ chồng với bà T, không có thiện chí hàn gắn quan hệ hôn nhân với bà T.

Như vậy, hôn nhân giữa bà T và ông Seo Gwang S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không có nghĩa vụ vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Do đó, bà T yêu cầu ly hôn với ông Seo Gwang S là có căn cứ đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà T ly hôn với ông Seo Gwang S.

[2.2] Về con chung, về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chỉ giải quyết vụ án trong phạm vi đơn khởi kiện của bà T. Hội đồng xét xử không giải quyết về con chung, về tài sản chung và nợ chung.

[3] Về chi phí tố tụng: Bà T phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 153 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 28, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 153, khoản 1 Điều 273 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Diễm T. Bà Nguyễn Thị Diễm T được ly hôn với ông Seo Gwang S.

2. Về con chung, về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

3. Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị Diễm T phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), được trừ vào tạm thu lệ phí ủy thác tư pháp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số: 0002530 ngày 05/8/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Diễm T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số: 0004243 ngày 10/7/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

5. Về quyền kháng cáo:

- Bà Nguyễn Thị Diễm T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

- Ông Seo Gwang S được quyền kháng cáo trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 08/04/2020 về tranh chấp ly hôn 

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về