Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 05/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 32/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2020 về việc tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2020/QĐXX-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K, sinh năm 1985- Có mặt

- Bị đơn: Anh Trần Xuân N, sinh năm 1985- Vắng mặt

Cùng nơi cư trú: Xóm VH, xã VH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1]. Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai, cùng các tài liệu, giấy tờ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị K trình bày:

Chị và anh Trần Xuân N kết hôn tháng 01/2004, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã VH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm VH, xã VH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Khoảng 10 năm trở lại đây vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng, hay cãi chửi nhau. Nguyên nhân chủ yếu do anh N mắc tệ nạn cờ bạc, không tu chí làm ăn, nợ nần cờ bạc bên ngoài nhiều nên hay bị xã hội đen đến nhà đòi nợ và phải trốn tránh.

Nay chị xác định cuộc hôn nhân giữa chị và anh N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung, con lớn tên là Trần Thị Mỹ D, sinh ngày 28/10/2004, con thứ hai tên là Trần Văn L, sinh ngày 21/01/2010. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con chung và chưa yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con. Về điều kiện nuôi con, hiện chị có nhà ở ổn định, có điều kiện kinh tế đủ để nuôi con.

Về tài sản chung: Hai vợ chồng sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đ đã thực hiện việc tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh Trần Xuân N theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, anh N không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định; do vậy, Tòa án không xác định được lời khai của anh N và không tiến hành hòa giải được.

[3]. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ tại địa phương nơi cư trú của đương sự về tình trạng hôn nhân. Kết quả xác định: Khoảng 10 năm nay anh N xa đà vào tệ nạn, bài bạc nên vợ chồng có mâu thuẫn, hay cãi chửi nhau. Gia đình có khuyên can nhưng không được, từ 2 đến 3 năm trở lại đây còn xa đà hơn, dẫn tới nợ nần xã hội đen bên ngoài nhiều.

[4]. Tại đơn đề nghị đề ngày 19/02/2020, hai con chung của đương sự là cháu Trần Thị Mỹ D, sinh ngày 28/10/2004 và cháu Trần Văn L, sinh ngày 21/01/2010 đều có nguyện vọng sau khi bố mẹ ly hôn cháu muốn sống cùng với mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị K với bị đơn anh Trần Xuân N, cùng đăng ký hộ khẩu thường trú tại: xã VH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt Kiểm sát viên. Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 1 Điều 232 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy, việc vắng mặt của Kiểm sát viên không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, do đó, quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo quy định.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ và tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng đối với anh Trần Xuân N theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật tố tụng dân sự; tuy nhiên, anh Trần Xuân N không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án; do vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được, phải đưa ra xét xử công khai. Tại phiên tòa anh Trần Xuân N vắng mặt lần thứ hai không có lý do, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Trần Xuân N.

[2]. Về nội dung vụ án:

+ Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị K và anh Trần Xuân N kết hôn năm 2004, có đăng ký kết hôn tại UBND xã VH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Vì vậy, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm VH, xã VH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Tuy nhiên, khoảng 10 năm trở lại đây vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng, hay cãi chửi nhau. Nguyên nhân do anh N mắc tệ nạn cờ bạc, không tu chí làm ăn, nợ nần phải trốn tránh.

Qua đó, Hội đồng xét xử xét thấy cuộc hôn nhân hiện nay giữa chị Nguyễn Thị K với anh Trần Xuân N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị K là có cơ sở chấp nhận, cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn với anh Trần Xuân N là phù hợp với các quy định của pháp luật.

+ Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung là Trần Thị Mỹ D, sinh ngày 28/10/2004 và Trần Văn L, sinh ngày 21/01/2010. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị K đều có nguyện vọng muốn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung và chưa yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại 02 con chung đã trên 07 tuổi, các cháu có nguyện vọng muốn được sống với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn, chị K có nhà ở và có thu nhập ổn định đảm bảo các điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án không thu thập được lời khai, quan điểm của anh N về con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của hai con chung sau khi vợ chồng ly hôn thì cần giao con chung là Trần Thị Mỹ D và Trần Văn L cho chị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho tới khi hai con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc tới khi có sự thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị K chưa có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

+ Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không có yêu cầu. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[3]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị Nguyễn Thị K phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 174, Điều 175, Điều 177, Điều 179, Điều 227, Điều 228, Điều 232, Điều 264, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn của chị Nguyễn Thị K, cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn với anh Trần Xuân N.

2. Về con chung: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Giao hai con chung là Trần Thị Mỹ D, sinh ngày 28/10/2004 và Trần Văn L, sinh ngày 21/01/2010 cho chị Nguyễn Thị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho tới khi hai con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc tới khi có sự thay đổi khác. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung đối với anh Trần Xuân N vì chị Nguyễn Thị K chưa có yêu cầu.

Anh Trần Xuân N có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng cho con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

4. Án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Nguyễn Thị K phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước. Được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016576 ngày 19/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Chị Nguyễn Thị K đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Nguyễn Thị K, vắng mặt anh Trần Xuân N. Báo cho chị K biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 05/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về