Bản án 09/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam sách tỉnhHải Dương, xét xử công khai sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 10/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T (tên gọi khác: Không), sinh năm 1986;

ĐKHKTT và cư trú tại: Thôn N, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1964; vợ là Nhữ Thị H (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2009;

Tiền án, tiền sự: Không;

Hiện bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách - (có mặt).

- Người bị hại: Anh Phạm Quang H, sinh năm 1969 (đã chết); Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương;

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

1 - Ông Phạm Quang Tr, sinh năm 1936 (bố đẻ anh H) (vắng mặt);

2 - Bà Trần Thị U sinh năm 1939, (mẹ đẻ anh H) - (vắng mặt);

3 - Chị Phạm Thị H1, sinh năm 1979, (vợ anh H) - (vắng mặt); Đều địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương;

- Người có quyền lợi liên quan:

1 - Cháu Phạm Thị H2, sinh năm 2002;

2 - Cháu Phạm Thị O, sinh năm 2005;

3 - Cháu Phạm Quang K, sinh năm 2014;

(Cháu H2, cháu O, cháu K đều là con của anh H và chị H1, do chị H1 là người đại diện hợp pháp của cháu H2, cháu O, cháu K - ( đều vắng mặt);

- Người đại diện theo ủy quyền của ông Tr, bà U, chị H1: Anh Phạm Văn S, sinh năm 1964;

Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; (vắng mặt).

- Những người làm chứng:

1-Anh Phạm Huy H3, sinh năm 1985 - (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn M, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương;

2- Anh Hoàng Kim T1, sinh năm 1977- (vắng mặt).

Địa chỉ: Số nhà 14, ngõ 1 đường M, thị trấn N, huyện N, tỉnh Hải Dương - (vắng mặt).

3- Anh An Trung H4, sinh năm 1999;

Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương - (vắng mặt).

4- Anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1984;

Địa chỉ: Thôn N, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương - (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 02/10/2018, tại km 74 + 200 Quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn An Xá, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn T có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA sirius biển số 34B2 - 856.02 đi theo hướng từ Tiền Trung đi Chí Linh. Khi đến gần khu vực ngã tư có lối rẽ bên phải đi vào UBND xã An Bình, huyện Nam Sách, lối rẽ bên trái đi vào thôn An Xá, Quốc Tuấn bên phải đường có biển báo nguy hiểm giao nhau với đường phụ. T quan sát thấy anh Phạm Quang H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu wave biển số 34B1 - 748.27 đi từ hướng UBND xã An Bình ra Quốc lộ 37. T bóp còi để cảnh báo có xe đi ở đường chính. T nghĩ rằng anh H từ đường nhánh đi ra sẽ nhường đường cho T đi trên đường chính nên vẫn điều khiển xe đi với tốc độ khoảng từ 40 - 45 km/h mà không giảm tốc độ. Khi anh H điều khiển xe đi từ đường nhánh ra Quốc lộ 37 thì xảy ra tai nạn, va chạm giữa bánh trước xe mô tô do T điều khiển với phần giữa bên trái xe mô tô do anh H điều khiển, làm hai phương tiện đổ nằm ra đường; Hậu quả: Hai xe mô tô hư hỏng, T bị thương phải điều trị tại bệnh viện đa khoa huyện Nam Sách từ ngày 02/10/2018 đến ngày 08/10/2018 ra viện; anh H bị thương nặng phải đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương đến ngày 08/10/2018 bị tử vong.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường không còn nguyên vẹn, nạn nhân được đưa đi cấp cứu, phương tiện là 02 xe mô tô được di chuyển vào trong mép đường. Hiện trạng đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đường thẳng được trải nhựa áp phan bằng phẳng có mặt đường rộng 10mét 40, ở giữa tim đường có vạch sơn liền màu vàng, có vạch sơn dành cho người đi bộ. Ở mép đường bên phải theo hướng đi Tiền Trung đi Chí Linh có lối mở vào xã An Bình rộng 10 mét, mép đường trái theo hướng Tiền Trung đi Chí Linh có lối mở vào thôn An Xá, Quốc Tuấn. Biển báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên hai bên và biển báo nguy hiểm giao nhau với đường ưu tiên. Theo hướng từ UBND xã An Bình ra Quốc Lộ 37 ở phía bên phải lối mở đi vào xã An Bình có 01 biển báo chỉ dẫn đường người đi bộ sang ngang và có các vạch sơn trắng kẻ dọc trục đường thể hiện vị trí người đi bộ đi qua đường, cách đầu lối mở bên trái 21,70 mét là cột mốc số H1/74 (về phía Tiền Trung). Cách cột mốc H1/74 31mét 50 về phía Tiền Trung là gờ giảm tốc rộng 2,7 mét, cách gờ giảm tốc này 2 mét về phía Tiền Trung là biển báo nguy hiểm giao nhau với đường phụ bên phải và đường phụ bên trái được cắm sát mép đường bên trái theo hướng Chí Linh - Tiền Trung; Cách biển báo nguy hiểm này 19mét 60 về phía Tiền Trung là gờ giảm tốc thứ hai rộng 2,7 mét.

Ghi nhận việc đánh số thứ tự từ 1 đến 4. Vị trí 1 là vết cà xước mặt đường kích thước 6mét 10 x 3cm; vị trí 2 là vết cà xước mặt đường kích thước 2mét x 4cm; vị trí 3 vết máu kích thước 35cm x 20cm; vị trí 4 vùng máu kích thước 20cm x 20cm.

Việc khám nghiệm thống nhất theo hướng từ Tiền Trung - Chí Linh, lấy cột mốc có ký hiệu H1/74 nằm mép đường phải để đo đến các dấu vết còn lại.

Từ cột mốc có ký hiệu H1/74 nằm mép đường phải đo dọc theo chiều đường bên phải hướng Tiền Trung - Chí Linh dài 29m50 là đến đầu vết cà xước mặt đường kích thước 6m10 x 3cm (vị trí 1) có đầu vết cà xước đo vào mặt đường phải là 6mét 10, cuối vết đo vào mặt đường phải là 7mét 90. Từ đầu vết cà xước đánh số thứ tự 1 đo thẳng, dọc chiều đường hướng Tiền Trung - Chí Linh 70cm là đến đầu vết cà xước mặt đường 2mét x 4cm (vị trí số 2), có đầu vết cà xước đo vào mép đường phải là 5mét 30, cuối vết cà xước đo vào mép đường phải là 5mét 35. Từ đầu vết cà xước mặt đường được đánh (vị trí số 2) 1mét 70 đo dọc theo chiều đường hướng Tiền Trung đi Chí Linh 80cm là đến tâm vùng máu kích thước 35cm x 20cm (vị trí số 3), đo dọc theo chiều đường hướng Tiền Trung - Chí Linh 80cm là đến tâm vùng máu kích thước 20cm x 20cm (vị trí số 4) có tâm vùng máu đo vào mép đường phải là 4mét 80.

Kết quả khám nghiệm xe mô tô biển số 34B1 - 748.27 để lại các dấu vết sau: Tại giá để chân của người lái bên trái bị gãy rời khỏi vị trí trên xe còn để lại phần kim loại hàn với chân trống phụ xe. Mặt ngoài của đầu phía sau của cần sang số có vết mài mòn kim loại vết có chiều từ ngoài vào trong, kích thước 1,7cm x 0,2cm. Từ dấu vết trên làm cho ½ của đầu phía sau cần số bị đẩy cong theo chiều từ ngoài vào trong ép sát vào vỏ máy vào hộp xích, trên bề mặt vết còn bám dính tạp chất màu đen. Ở trên vỏ máy có vết xước sơn chùi sạch bụi bẩn, vết có chiều từ ngoài vào trong, kích thước 11cm x 2cm. Tương ứng với dấu vết trên làm vỡ nắp hộp xích của xe, còn để lại mảnh kim loại gắn với ốc bắt giữ vào khung xe trên bề mặt mảnh kim loại còn dính tạp chất màu đen trên diện 2 x 1,5cm. Tương ứng với dấu vết trên theo chiều từ dưới lên trên có vết rách vỡ nhựa trên diện 16 x 17cm. Trên bề mặt vết bám dính tạp chất màu đen. Tại mặt ngoài đầu tay nắm điều khiển xe bên trái có vết xước nhựa, chiều từ dưới lên trên, kích thước 3cm x 3cm. Tại mặt ngoài giá để chân người ngồi sau bên trái có vết mài mòn kim loại, chiều từ trước về sau, từ dưới lên trên, kích thước 0,7 x 0,3cm.

Kết quả khám nghiệm xe mô tô biển số 34B2 - 856.02 nhãn hiệu Yamaha Sirius, để lại các dấu vết sau: Tại mặt lăn lốp bánh trước có vết va chạm làm rách lốp, vết rách hình chữ V, hướng về sau, kích thước 4 x 0,5 cm. Điểm gần nhất cách hàng số 70/90 -17 là 23cm theo chiều quay kim đồng hồ. Bánh trước hết hơi. Tương ứng với vị trí dấu vết trên ở hai bên của vành bánh trước xe có vết xước sơn, vết có chiều từ ngoài vào tâm lốp, kích thước 1cm x 0,7cm. Điểm gần nhất cách mặt đất cách vị trí chân van là 21cm theo chiều quay kim đồng hồ. Từ dấu vết trên làm cho giảm xóc cổ phốt xe bị đẩy về phía sau làm cho đầu chắn bùn phía sau của bánh trước xe, lốp bánh trước áp sát vào vách máy. Tại mặt ngoài của đầu chắn bùn trước của chắn bùn bánh trước xe có vết xước sơn nứt vỡ nhựa vết có kích thước 29 x 18cm. Cánh yếm bên phải bị vỡ rời khỏi vị trí trên xe. Tại dầu mút của tay phanh có vết xước sơn mài mòn kim loại, vết có chiều từ trước về sau vết có kích thước 1,2 x 0,7cm trên bề mặt bám dính bột đá màu trắng. Tại mặt ngoài phía bên phải của đầu cần phanh chân có vết mài mòn kim loại vết có chiều từ trước về sau, kích thước 3cm x 0,7cm trên bề mặt vết dính chất bột đá màu trắng. Tại mặt ngoài của đầu ốp cao su, lõi kim loại của bàn để chân người lái bên phải có vết rách cao su mài mòn kim loại, vết có chiều từ trước về sa, vết có kích thước 3 x 1,2cm trên bề mặt vết bám dính chất bột màu trắng. Từ dấu vết trên làm cho giá để chân người lái bên phải bị đẩy cong về phía sau lệch khỏi vị trí ban đầu 2cm.

Kết luận giám định pháp y số 225/2018/TT ngày 18/10/2018 của Trung tâm pháp y Hải Phòng thuộc Sở y tế Hải Phòng kết luận về nguyên nhân chết của anh Phạm Quang H, bị tai nạn giao thông chết vì suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp không phục hồi do đa chất thương, chấn thương sọ não, hàm mặt nặng.

Xe mô tô nhãn hiệu wave biển số 34B1 - 748.27 của anh H hư hỏng nhẹ thiệt hại trị giá 270.000đồng

Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Văn T đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại số tiền 100.000.000 đồng. Những người đại diện hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi liên quan không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận quá trình phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của VKS nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đã truy tố.

Người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi liên quan có đơn xin vắng mặt và xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Bản cáo trạng số 09/VKS-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội: "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao T cho UBND xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trách nhiện dân sự: Bị cáo đã tự bồi thường xong, người bị hại không yêu cầu giải quyết nên không xét; Vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA sirius biển số 34B2 - 856.02 là tài sản của bị cáo cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo và chiếc xe mô tô nhãn hiệu wave biển số 34B1 - 748.27 đã trả lại cho người đại diện hợp pháp của anh H là đúng pháp luật. Trả lại cho bị cáo giấy phép lái xe số AY 101551 mang tên Nguyễn Văn T. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe mô tô của bị cáo và xe của người bị hại; Kết luận giám định pháp y thể hiện:

[3] Khoảng 11 giờ ngày 02/10/2018, tại km 74 + 200 Quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn An Xá, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn T có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA sirius biển số 34B2 - 856.02 đi theo hướng từ Tiền Trung đi Chí Linh. Khi đến gần khu vực ngã tư có lối rẽ bên phải đi vào UBND xã An Bình, huyện Nam Sách, lối rẽ bên trái đi vào thôn An Xá, Quốc Tuấn, bên phải đường có biển báo nguy hiểm giao nhau với đường nhánh. Khi phát hiện người từ đường nhánh đi ra đường chính bị cáo đã bấm còi xin đường, nH do bị cáo không chấp hành quy định về tốc độ (giảm tốc độ, có thể dừng lại một cách an toàn) nên khi anh H điều khiển đi từ đường nhánh ra đường chính thì xe mô tô do Nguyễn Văn T điều khiển va chạm với xe mô tô nhãn hiệu wave biển số 34B1 - 748.27 do anh Phạm Quang H điều khiển đi từ đường nhánh hướng UBND xã An Bình ra đường Quốc lộ 37 làm Anh Phạm Quang H bị thương và tử vong ngày 08/10/2018.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn giao thông; xâm phạm đến tính mạng và tài sản của người khác, gây tâm lý hoang mang lo sợ của những người khác khi tham gia giao thông. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã được học Luật giao thông đường bộ, nhưng khi tham gia giao thông đã không thực hiện đúng Luật giao thông đường bộ, không làm chủ tốc độ, giảm tốc độ đến mức an toàn khi đi đến khu vực có biển báo nguy hiểm giao nhau với đường phụ. Hành vi của bị cáo đã vi phạm Điều 9, khoản 1 Điều 11; khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ; khoản 1, 3 Điều 5 Thông tư 91/2015/TT - BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Văn T phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS. Vì vậy cần có hình phạt nghiêm khắc với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi gây tai nạn, bị cáo và gia đình đã đến thăm hỏi và tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại và tổn thất về tinh thần cho gia đình người bị hại. Đại diện gia đình bị hại đề nghị xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xin giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo. Mặt khác xét trong vụ án, người bị hại cũng có lỗi khi tham gia giao thông khi đi từ đường nhánh ra đường chính đã không quan sát, nhường đường cho xe đi trên đường chính mặc dù xe đi trên đường chính đã bấm còi xin đường là vi phạm khoản 3 Điều 24 Luật giao thông đường bộ. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại. Người đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần dân sự, nên HĐXX không xét.

[7] Về vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA sirius biển số 34B2 - 856.02 là tài sản của bị cáo cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo và chiếc xe mô tô nhãn hiệu wave biển số 34B1 - 748.27 đã trả lại cho người đại diện hợp pháp của anh H là đúng pháp luật. Giấy phép lái xe số AY 101551 mang tên Nguyễn Văn T do Sở giao thông vận tải Hà Nội cấp ngày 4/3/2013 là tài liệu trong vụ án, do bị cáo không bị cấm lái xe mô tô, sao tài liệu trên lưu hồ sơ và trả lại bị cáo giấy phép trên cho bị cáo.

[8] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 BLHS.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".

Xử phạt: Nguyễn Văn T 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao T cho UBND xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS, trả lại bị cáo giấy phép lái xe số AY 101551 mang tên Nguyễn Văn T do Sở giao thông vận tải Hà Nội cấp ngày 4/3/2013.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đồng án phí sơ thẩm hình sự.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo,được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người đại diện hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về