Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 35/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 03 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Q, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn 8, xã C, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt

2. Bị đơn: Anh Hoàng Mậu D, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn 11, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Bùi Thị Q trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Hoàng Mậu D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk ngày 16/9/2014. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau. Từ tháng 4 năm 2017 đến nay vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Q đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D.

Về con chung: Chị Q khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Hoàng Thuỳ A, sinh ngày 18/10/2014, hiện cháu Thuỳ A đang ở với chị. Chị Q đề nghị được nuôi cháu Thùy A và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Thùy A đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập anh D đến toà án để viết bản khai nhưng anh Dũng không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của anh D.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Q đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh D, đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Thuỳ A, yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 56, Điều 81, 82,83 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Hoàng Mậu D đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên hoà giải nhưng anh D không có mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh D cũng được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị Q vắng mặt tại phiên toà nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh D và chị Q là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Q và anh Hoàng Mậu D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị Q là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau. Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 21/3/2019 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Hà L thì vợ chồng chị Q, anh D thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau và đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2017 cho đến nay. Như vậy, trong cuộc sống vợ chồng giữa chị Q và anh D luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột dẫn đến sống ly thân. Một thời gian dài vợ chồng không sống chung và không còn quan tâm đến nhau nữa, thực sự cuộc sống vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị Q được ly hôn anh D là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Q khai, chị và anh D có một con chung, cháu tên là Hoàng Thuỳ A, sinh ngày 18/10/2014. Chị Q cũng xuất trình cho Tòa án trích lục khai sinh của cháu Hoàng Thuỳ A, trong đó xác định cháu Thùy A là con chung của chị Q và anh D. Mặt khác, cháu Thùy A được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu Thùy A là con chung của chị Q và anh D. Cháu Thùy A còn nhỏ, từ khi sinh ra đến nay do chị Q chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, để tránh sự xáo trộn về tâm sinh lý của cháu, nên giao cháu Thuỳ A cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Mức đề nghị cấp dưỡng nuôi con chung của chị Q là phù hợp nên được chấp nhận

[4]. Về tài sản: Chị Q không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Bùi Thị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật. Anh Hoàng Mậu D phải chịu án án dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83; khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 2, Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều 6; khoản 5, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Thị Q và anh Hoàng Mậu D.

2. Về con chung: Công nhận cháu Hoàng Thùy A, sinh ngày 18/10/2014 là con chung của chị Bùi Thị Q và anh Hoàng Mậu D. Giao cháu Thuỳ A cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Q mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời hạn cấp dưỡng nuôi con chung tính từ tháng 7 năm 2019 cho đến khi cháu Thuỳ A đủ 18 tuổi . Anh D có quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

Kể từ khi chị Q có đơn yêu cầu thi hành án phần cấp dưỡng nuôi con, nếu chưa thi hành án, anh D còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền và thời gian chưa thi hành án. Khoản tiền lãi chậm thi hành án được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Q đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0000429 ngày 05/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị Q đã nộp đủ án phí. Anh Hoàng Mậu D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Q, anh D có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về