Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Trong ngày 10 tháng 5 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2019 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T. Sinh năm 1985.

Trú tại: Tổ 1 khu 7, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt

- Bị đơn: Anh Ngô Văn Q. Sinh năm 1984.

Trú tại: Tổ 1 khu 7, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị T trình bày: Chị kết hôn với anh Ngô Văn Q vào năm 2008 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Đến năm 2015 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh Q cờ bạc, nợ nần và còn đánh đập chị. Chị và gia đình đã khuyên can và nhiều lần tạo cơ hội cho anh Q sửa chữa nhưng anh Q vẫn không thay đổi. Vì cờ bạc, anh Q còn phải bán cả nhà để thanh toán nợ dẫn đến kinh tế gia đình khánh kiệt. Chị T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể khắc phục được, hôn nhân không hạnh phúc, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Chị T và anh Q có hai con chung là Ngô Trung H- sinh ngày 30/3/2009 và Ngô Thanh T- sinh ngày 27/9/2010. Chị đề nghị được nuôi cả hai con chung, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Ngô Văn Q không có mặt theo các giấy triệu tập của Tòa án, không tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành. Tại phiên tòa, anh Q xác nhận hoàn cảnh và điều kiện kết hôn như chị T trình bày là đúng, xác nhận mâu thuẫn vợ chồng do anh cờ bạc, nợ nần, nhưng anh không đồng ý ly hôn, mong được chị T cho cơ hội sửa chữa lỗi lầm để vợ chồng đoàn tụ.

Về con chung: anh Q xác nhận vợ chồng có hai con chung như chị T trình bày. Nếu ly hôn, anh đề nghị được nuôi con Ngô Trung H, chị T nuôi con Ngô Thanh T, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Hôn nhân giữa chị Hoàng Thị T và anh Ngô Văn Q là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Căn cứ lời khai của nguyên đơn, bị đơn và xác nhận của chính quyền địa phương nơi anh Q, chị T cứ trú xác định: Quá trình sống chung, chị T và anh Q đã xảy ra mâu thuẫn từ năm 2015, do anh Q cờ bạc, nợ nần. Tại phiên tòa, chị T giữ nguyên yêu cầu ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài, không thể khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.

[2]. Về con chung: Hiện tại các con chung đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Mặt khác, anh Q là lao động tự do, thu nhập không ổn định, chị T có công việc và thu nhập ổn định đảm bảo đủ điều kiện nuôi con, nên cần chấp nhận giao hai con chung cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp. Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[3]. Về tài sản chung: Chị T và anh Q không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đề cập.

[4].Về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 227, khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 1 điều 56, điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị T. Chị Hoàng Thị T được ly hôn anh Ngô Văn Q.

Giao con chung Ngô Trung H- sinh ngày 30/3/2009 và Ngô Thanh T- sinh ngày 27/9/2010 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các con chung thành niên (Đủ 18 tuổi). Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Q có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Hoàng Thị T phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai số 0003488 ngày 08/3/2019 của Thi hành án dân sự huyện H.

Chị Hoàng Thị T và anh Ngô Văn Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về