Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 09/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 337/2018/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-

HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1974

Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt). Bị đơn: Ông Tạ Văn K, sinh năm 1970

Nơi đăng ký HKTT: Thôn N, xã N, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.

Chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã T, huyện B, tỉnh Hà Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo tại toà án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị B trình bày: Bà và ông Tạ Văn K kết hôn ngày 15/7/1992 và được Ủy ban nhân dân xã N, huyện V, tỉnh Vĩnh Phú (cũ). Nay là Ủy ban nhân dân xã N, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc đăng ký và cấp giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật. Việc kết hôn của bà và ông K là tự nguyện, không bị đe dọa hay ép buộc gì. Sau khi kết hôn bà về chung sống cùng gia đình ông K tại thôn N, xã N ngay. Bà và ông K chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 1998 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông K có quan hệ bất chính với người đàn bà khác. Bà và ông K đã sống ly thân từ đó đến nay, trong thời gian ly thân thì vợ chồng đã bỏ mặc, không quan, chăm sóc hay giúp đỡ gì đến nhau trong cuộc sống nữa.

Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Tạ Văn K.

Về con chung: Bà và ông K có 01 con chung là Tạ Thị H, sinh năm 1996. Hiện đã trưởng thành, trên 18 tuổi và đã kết hôn, sinh sống tại tỉnh Hưng Yên nên bà không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ, đất nông nghiệp và công sức: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Tạ Văn K tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại Biên bản lấy lời khai của đương sự đề ngày 17/4/2019 do Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang thực hiện, ông K trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị B kết hôn năm 1991 và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đồng thời ông thừa nhận sau khi kết hôn bà B về chung sống cùng gia đình ông tại thôn N, xã N ngay. Trong cuộc sống thì vợ chồng có xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau dẫn đến cuộc sống không có hạnh phúc. Ông và bà B đã sống ly thân từ năm 1998 đến nay, trong thời gian ly thân thì ông và bà B đã bỏ mặc không quan tâm, chăm sóc hay giúp đỡ gì đến nhau trong cuộc sống nữa.

Nay bà B xin ly hôn, ông đồng ý vì ông cũng xác định tình cảm vợ chồng là không còn.

Về con chung: Ông và bà Nguyễn Thị B có 01 con chung là Tạ Thị H, hiện đã trưởng thành, trên 18 nên ông không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ, đất nông nghiệp: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý đến thời điểm thời điểm xét xử, Thẩm phán đã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự như: Thụ lý và thông báo về việc thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định đúng quan hệ tranh chấp và tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng trong vụ án; chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử, ban hành và gửi thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng, gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát theo đúng quy định. Thẩm phán đã thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định; tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Không kiến nghị gì về tố tụng.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

Xử: Cho bà Nguyễn Thị B được ly hôn ông Tạ Văn K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị B khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn với bị đơn ông Tạ Văn K theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy việc kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

[2]Về tố tụng: Bị đơn ông Tạ Văn K đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3]Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Trích lục kết hôn đề ngày 23/5/2017 của Ủy ban nhân dân xã N, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc thì bà Nguyễn Thị B và ông Tạ Văn K kết hôn ngày 15/7/1992 chứ không phải năm 1991 như lời trình bày của ông K. Việc kết hôn của bà B và ông K không thuộc trường hợp bị cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng đã có một thời gian chung sống hòa thuận, hạnh phúc và đã có 01 con chung. Bà B và ông K đều thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân từ năm 1998, trong thời gian ly thân thì vợ chồng đã bỏ mặc không còn quan tâm, chăm sóc hay giúp đỡ gì đến nhau trong cuộc sống nữa. Bản thân ông K đã chuyển đến sinh sống tại xã T, huyện B, tỉnh Hà Giang từ năm 1994. Ông K cũng đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà B.

Điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa bà B và ông K đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên việc bà B xin ly hôn ông K là có căn cứ. Vì vậy căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết cho bà B được ly hôn ông K.

[4] Về con chung: Bà Nguyễn Thị B và ông Tạ Văn K đều thừa nhận vợ chồng có 01 con chung là Tạ Thị H, hiện đã trưởng thành, trên 18 tuổi nên đều không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết; nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ, đất nông nghiệp và công sức: Do các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí:

Bà Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Xử: Cho bà Nguyễn Thị B được ly hôn với ông Tạ Văn K.

2. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai số: AA/2017/0001994 ngày 21 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường. Bà B đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 09/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về