Bản án 09/2019/DS-ST ngày 06/08/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 09/2019/DS-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 06 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N, tỉnh K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 126/2018/TLST-DS ngày 14 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXXST-DS ngày 02 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2019/QĐST-DS ngày 18 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị L – sinh năm 1978; địa chỉ: Số 83 Hoàng Thị L, thị trấn P, huyện N, tỉnh K. Có mặt

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy T – sinh năm 1978; địa chỉ: thôn 4, thị trấn P, huyện N, tỉnh K. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/12/2018 và các lời khai tại Toà án nhân dân huyện N, nguyên đơn bà chị Trịnh Thị L trình bày:

Từ tháng 8/2017 (AL) tức tháng 09/2017 (DL) đến tháng 12/2017 (DL) chị Nguyễn Thị Thùy T, trú tại thôn 4, thị trấn P, huyện N, tỉnh K, có mượn của chị L 03 lần với tổng số tiền là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) các lần mượn tiền như sau.

Lần 1: Ngày 03/8/2017 (AL) tức ngày 22/9/2017 (DL) chị Nguyễn Thị Thùy T mượn số tiền là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), hẹn 10 ngày trả (Giấy mượn tiền do chị Nguyễn Thị Thùy T viết và ký tên).

Lần 2: Ngày 12/8/2017 (AL) tức ngày 01/10/2017 (DL) chị T mượn 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) hẹn 05 tháng sẽ hoàn trả (Giấy mượn tiền do chị Nguyễn Thị Thùy T viết và ký tên).

Lần 3: Ngày 03/12/2017 (DL) chị T mượn 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) hẹn 04 ngày sẽ hoàn trả (Giấy mượn tiền do chị Nguyễn Thị Thùy T viết và ký tên).

Nhưng đến nay chị T vẫn không trả cho chị L đồng nào, do đó chị L làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị T phải trả cho chị L tổng số tiền là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng), chị L không yêu cầu tính lãi, ngoài ra chị L không yêu cầu gì khác.

Đối với bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án số: 105/2018/TB-TLVA ngày 18/12/2018, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 105/2018/TB- TA ngày 04/01/2019 nhưng bị đơn không có mặt tại nơi cư trú, do đó Tòa án tiến hành thủ tục niêm yết công khai các Thông báo nói trên theo quy định. Trong thời gian niêm yết bị đơn không có ý kiến, không có yêu cầu phản tố gửi đến Tòa án, phiên hòa giải không thể hòa giải được vì vắng mặt chị Thảo.

Tòa án đã tiến hành xác minh về việc chị T vắng mặt tại nơi cư trú, Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với chị Nguyễn Thị Thùy T trên Đài tiếng nói Việt Nam, Báo Công lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, nhưng chị T vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và không có văn bản trình bày ý kiến hoặc tin tức gì, do đó Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Về chi phí tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú: Nguyên đơn đã nộp chi phí Đăng tin trên báo, đài là 3.000.000 đồng.

Về tiền tạm ứng án phí: Nguyên đơn đã nộp tạm ứng 3.750.000 đồng.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Thẩm phán xác định đúng quan hệ tranh chấp, nội dung tranh chấp, tư cách tham gia tố tụng, thủ tục giải quyết, thời hạn giải quyết đúng quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Trịnh Thị L, buộc chị Nguyễn Thị Thùy T phải trả cho chị Trịnh Thị L tổng số tiền là 150.000.000 đồng và chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, lời khai của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy T vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai mà không có lý do, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T, thấy rằng chị Nguyễn Thị Thùy T vắng mặt tại nơi cư trú Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai, thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật, căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án trong trường hợp vắng mặt bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy T.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Vụ việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản không tính lãi giữa cá nhân với cá nhân thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Về nội dung:

Tại phiên tòa chị Trịnh Thị L vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Nguyễn Thị Thùy T phải trả cho chị L tổng số tiền theo ba giấy mượn tiền là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng); trong đó: Giấy mượn tiền ngày 03/8/2017 (AL) tức ngày 22/9/2017 (DL) là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) hẹn 10 ngày trả; Giấy mượn tiền ngày 12/8/2017 (AL) tức ngày 01/10/2017 (DL) là 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) hẹn 05 tháng sẽ hoàn trả; Giấy mượn tiền ngày 03/12/2017 (DL) là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) hẹn 04 ngày trả. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chị L đã cung cấp cho Tòa án ba giấy mượn tiền (bút lục số 09,10,11), theo chị L thì nội dung ba giấy mượn tiền là do chị T tự viết và ký tên.

Như vậy hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn không tính lãi giữa chị Trịnh Thị L và chị Nguyễn Thị Thùy T đảm bảo đúng quy định của pháp luật, đến hẹn trả nợ chị T không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ nên đã vi phạm hợp đồng, do đó chị L khởi kiện yêu cầu chị T phải trả số tiền 150.000.000 đồng là có căn cứ.

Thấy rằng: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã thực hiện việc tống đạt, niêm yết công khai, thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú các văn bản tố tụng của vụ án, nhưng chị Nguyễn Thị Thùy T đều không có ý kiến đến yêu cầu khởi kiện, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như không có yêu cầu phản tố. Căn cứ Điều 91 của Bộ luật tố tụng Dân sự có thể khẳng định: Chứng cứ mà nguyên đơn chị L cung cấp là hợp lệ, do đó Tòa án giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở và căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trịnh Thị L đề ngày 10/12/2018 về việc yêu cầu bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy T phải trả tổng số tiền nợ đến ngày 06/8/2019 là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng), theo quy định tại Điều 463; 466; 470 của Bộ luật dân sự năm 2015.

[4] Về chi phí tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú: Chị Trịnh Thị L đã nộp 3.000.000 đồng, tại tòa chị L nhận chịu toàn bộ chi phí này và không có ý kiến gì khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

Xét đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 91; 144; 147; 186, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; 466; 470; 357 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử như sau:

Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 12 năm 2018 của nguyên đơn chị Trịnh Thị L.

Buộc bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy T phải trả cho nguyên đơn chị Trịnh Thị L tổng số tiền là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật thi hành nếu bên phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho bên được thi hành án, thì bên được thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án và bên phải thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thùy T phải chịu án dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng).

Hoàn trả cho chị Trịnh Thị L số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 3.750.000đ (Ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai số: AA/2016/000192 ngày 12/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh K.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 06/8/2019.

Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/DS-ST ngày 06/08/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:09/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hồi - Kon Tum
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về