Bản án 09/2018/HS-ST ngày 18/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 18/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án Nhân dân thị xã Phước Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2018/TLST - HS ngày 04 tháng 01 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 02/2018/QĐXXST – HS ngày 08 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm: 1991, tại: Bình Phước; Nơi cư trú: thôn A, xã L, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch việt Nam; con ông Nguyễn Văn A và bà Lý Thị T; có vợ Phạm Thị Thanh H, sinh năm 1995; Bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/11/2017 đến ngày 24/11/2017 được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long áp dụng biện pháp bảo lĩnh. (Bị cáo mặt tại phiên tòa)

Người bị hại:  Ông Phan Tấn H, sinh năm 1952 (Có đơn xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố 1, phường Long Phước, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T làm thuê tại cửa hàng kim khí điện máy “H” thuộc khu phố 3, phường P, thị xã Phước Long của ông Phan Tấn H từ đầu năm 2017. Do biết ban đêm tại cửa hàng  không có người trông coi, cửa thì chỉ móc ở trong, không khóa nên Tạo đã nẩy sinh ý định trộm cắp tài sản của cửa hàng mang đi bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định trên, khoảng 02 giờ ngày 15/11/2017, T đi bộ từ khu phố S, phường L đến cửa hàng “H”. T dùng tay luồn vào bên trong cửa để tháo ổ khóa ra.

Sau đó, T  đóng cửa lại rồi đi lên tầng 02 cửa cửa hàng lấy trộm 01 máy xịt hiệu KTS-28 và 02 đoạn ống nhựa. Sau khi lấy xong, T đi xuống tầng 01 lấy thêm 01 mô tơ hiệu Super Line. Tạo lấy 01 bao tải có sẵn gần đó bỏ tất cả vào bên trong rồi lấy 01 cuộn dây dù cột và thả bao tải từ trên tầng 01 xuống tầng trệt. Khi xuống tầng trệt, T tiếp tục lấy thêm 01 máy mài hiệu Bosch bỏ vào bao tải rồi đi ra ngoài. Khi vừa ra khỏi cửa hàng T bị lực lượng Công an phường Phước Bình bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số tài sản Tạo chiếm đoạt được. Tại cơ quan Công an, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long tạm giữ: 01 bộ đầu xịt (gồm 01 máy xịt hiệu KTS-28; 01 đoạn ống nhựa đường kính 02cm, dài 2,5m;  01 đoạn ống nhựa đường kính 1,5cm, dài 02m; đầu lọc, ốc vít); 01 mô tơ hiệu Super Line; 01 máy mài hiệu Bosch và 01 cuộn dây dù loại 06ly, dài 45m (bút lục số 44). Ngày 16/11/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long đã trả lại toàn bộ số tài sản trên cho ông Phan Tấn H, Ông H không có yêu cầu gì thêm.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại 1202-2 màu xanh xám đã cũ Tạo khai nhận đã bật đèn pin của điện thoại di động để đi từ tầng 02 xuống tầng 01 do trời tối, thiếu ánh sáng.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 31/HĐ. ĐGTSTTTHS ngày 23/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Phước Long kết luận: Giá trị của 01 máy xịt hiệu KTS-28; 01 đoạn ống nhựa đường kính 02cm, dài 2,5m;  01 đoạn ống nhựa đường kính 1,5cm, dài 02m; 01 mô tơ hiệu Super Line; 01 máy mài hiệu Bosch và 01 cuộn dây dù loại 06ly, dài 45m tại thời điểm ngày 15/11/2017 là 2.045.000 đồng (hai triệu không trăm bốn mươi lăm ngàn đồng).

Tại bản cáo trạng số 04/Ctr - VKS ngày 03 tháng 01 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo có nhân thân tốt, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, trong quá trình điều tra bị hại có đơn xin bãi nại giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi và trả lại cho bị hại, bị cáo hiện đang nuôi hai con nhỏ, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p, h, g khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017= của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13; điểm đ khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại 1202-2 màu xanh xám.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Phước Long, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn Tạo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố đối với bị cáo, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở khẳng định: Nguyễn Văn T là người làm thuê cho cửa hàng “H” nên biết cửa hàng “Hiển Trúc” ban đêm không có người trông coi, cửa chỉ móc bên trong không khóa nên Nguyễn Văn T đã nẩy sinh ý định chiếm đoạt tài sản lấy tiền tiêu xài cá nhân. Thực hiện ý định trên, ngày 15/11/2017 Tạo đã đi bộ đến cửa hàng “H” của ông Phan Tấn H lấy trộm các tài sản có tại cửa hàng bao gồm 01 máy xịt hiệu KTS-28; 01 đoạn ống nhựa đường kính 02cm, dài 2,5m; 01 đoạn ống nhựa đường kính 1,5cm, dài 02m; 01 mô tơ hiệu Super Line; 01 máy mài hiệu Bosch và 01 cuộn dây dù loại 06ly, dài 45m. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: hành vi lén lút lấy trộm chiếm đoạt tài sản của bị cáo Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được luật hình sự bảo vệ. Bị cáo nhận thức được việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Nhưng do mục đích tư lợi cá nhân và muốn có tiền để sử dụng, bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 2.045.000 đồng (hai triệu không trăm bốn mươi lăm ngàn đồng). Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về Tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Xét tính chất, hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra đã làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương, trong thời gian qua tình hình trộm cắp xảy ra trên địa bàn thị xã Phước Long ngày càng nhiều gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử bị cáo mức án nghiêm để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra người bị hại có đơn xin bãi nại giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình và đang nuôi hai con nhỏ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p, h, g khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự cần xem xét khi lượng hình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Do bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, thực hiện tốt các chính sách của địa phương, theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, theo hướng có lợi cho bị cáo nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại Điều 31 bộ luật hình sự năm 1999 cũng đủ răn đe giáo dục bị cáo.

Xét gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, hiện bị cáo không có công việc ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Phan Tấn H không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4]. Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại 1202-2 màu xanh xám đã cũ bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội cần tịch thu sung quỹ.

Đối với 01 máy xịt hiệu KTS-28; 01 đoạn ống nhựa đường kính 02cm, dài 2,5m; 01 đoạn ống nhựa đường kính 1,5cm, dài 02m; 01 mô tơ hiệu Super Line; 01 máy mài hiệu Bosch và 01 cuộn dây dù loại 06ly, dài 45m là tài sản của người bị hại ông Phan Tấn H, trong qúa trình điều tra đã trả lại cho ông Phan Tấn H xét việc xử lý là đúng nên HĐXX không đề cập xử lý.

Về quan điểm của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm p, h, g khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 45, Điều 31, Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13; điểm đ khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015;  khoản  1,  Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết  số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và điểm 1 mục I danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 (Mươi hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày UBND xã Long Giang nhận được quyết định thi hành án. Được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/11/2017 đến ngày 24/11/2017 là 09 ngày (quy đổi: 9 x 3 = 27 ngày cải tạo không giam giữ), thời hạn cải tạo không giam giữ còn lại buộc bị cáo phải chấp hành là 11 (Mười một) tháng 03 (ba) ngày.

Giao bị cáo Nguyễn Văn T về Ủy ban nhân dân xã L quản lý giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

[3]. Về vật chứng vụ án: Tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại 1202-2 màu xanh xám.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0003518 ngày 04/01/2017 của Chi cục Thị hành án dân sự thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước).

[4]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn)đồng.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HS-ST ngày 18/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về