TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 09/03/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 09 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 02/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 05/2018/QĐXXST-HS đối với các bị cáo:
1. Vũ Văn T; sinh ngày 11 tháng 6 năm 1996 tại: Xóm 11, xã G1, huyện G, tỉnh N.
Nơi cư trú: Xóm 11, xã G1, huyện G, tỉnh N.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông Vũ Văn T và bà Tiêu Thị H; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 20/11/2017 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạmgiam Công an tỉnh Nam Định.
2. Nguyễn Anh T; sinh ngày 20 tháng 12 năm 1982 tại: Xóm 13, xã X1, huyện X, tỉnh N.
Nơi cư trú: Xóm 13, xã X1, huyện X, tỉnh N.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị C; có vợ là Nguyễn Thị D (đã ly hôn); có 03 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/11/2017 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định.
* Bị hại: Anh Đặng Văn G; sinh năm 1985.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 12, xã G2, huyện G, tỉnh N.
Tạm trú tại: Ki ốt 113 bãi tắm Q, khu du lịch Q, huyện G, tỉnh N.
* Người làm chứng:
- Chị Bùi Thị N; sinh năm 1963;
Trú tại: Tổ dân phố L1, thị trấn Q, huyện G, tỉnh N.
- Chị Cao Thị H; sinh năm 1982;
Trú tại: Tổ dân phố B, thị trấn Q, huyện G, tỉnh N.
- Bà Trần Thị N; sinh năm 1952;
- Chị Phạm Thị Y; sinh năm 1963;
Đều trú tại: Tổ dân phố L2, thị trấn Q, huyện G, tỉnh N.
Tại phiên tòa: Các bị cáo Vũ Văn T, Nguyễn Anh T đều có mặt. Người bị hại anh Đặng Văn G vắng mặt. Người làm chứng đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15h ngày 16/6/2017, anh Đặng Văn G đến nhà Cao Văn C chơi (theo lời khai của anh G: Giữa anh G và C có quan hệ xã hội chơi bời với nhau từ trước). Trong quá trình nói chuyện giữa anh G và C tại nhà Cđã xảy ra mâu thuẫn cãi nhau và thách thức nhau. Anh G đã lấy một chiếc kiếm tự chế của C cầm đi và có lời lẽ thách thức đối với C.
Do bực tức với anh G nên chiều tối ngày 16/6/2017, Cao Văn C lần lượt gọi điện thoại cho Đặng Văn V (lúc này V cùng với Phạm Văn H đang ở nhà Nguyễn Anh T) về mâu thuẫn giữa Cvà anh G. Sau đó C tiếp tục điện thoại cho T nói về việc mâu thuẫn giữa C và anh G cho T biết. T hỏi C“có cần bọn em xuống không? Cbảo T“có rỗi thì xuống tý”.Sau khi nghe điện thoại của C, Đặng Văn V và Phạm Văn H đi xe máy về nhà C ở xã G3. Chiến tiếp tục điện thoại cho Vũ Viết T đến nhà C. Trên đường đến nhà C, Vũ Viết T gặp Đinh Văn T, Vũ Viết T rủ Đinh Văn T cùng đến nhà C. Khi Vũ Viết T đến nhà C được một lúc thì Vũ Văn T cùng Hoàng Tuấn A cũng đến nhà C. Tại nhà C, Vũ Viết T bảo Hoàng Tuấn A chở mình đi tìm Phạm Minh Đ. Khi gặp Đ, Vũ Viết T bảo Đ “đến nhà C để đi đánh nhau” và bảo Đ mang đồ đi (mang dao, kiếm). Đ đồng ý sang nhà bà ngoại lấy một bọc khăn vải đỏ bên trong có 04 chiếc dao cùng Vũ Viết T và Tuấn A đến nhà C. Trên đường đến nhà C, Đ gặp Phạm Văn N, Đ rủ N cùng vào nhà C.
Khoảng 19h cùng ngày tại nhà Cao Văn C có: Đặng Văn V, Đinh Văn T, Vũ Văn T, Phạm Văn N, Hoàng Tuấn A, Vũ Viết T, Phạm Văn H, Phạm Minh Đ (cả nhóm có mối quan hệ với nhau từ trước). C bảo với cả nhóm là “thằng G ở Q rất láo với anh, nó dám lấy kiếm của anh về còn thách thức anh thích bao nhiêu thằng thì gọi, bây giờ đi xuống Q cho nó một trận”. Cả nhóm hiểu ý C bảo đi đánh nhau với G nên đều đồng ý. Đ và V vào bên trong nhà C tiếp tục lấy số dao (đã cất sẵn) ra cùng với bọc dao của Đ mang đến để ở trước cửa. Lúc này Vũ Viết T, Phạm Minh Đ, Vũ Văn T, Đặng Văn V, Phạm Văn H mỗi người cầm 01 con dao. Hoàng Tuấn A điều khiển xe mô tô BKS: 18G1 - 26371 chở C ngồi giữa, Đc cầm dao ngồi sau; N điều khiển xe Wave màu trắng chở V và Vũ Viết T mỗi người cầm một con dao; Đinh Văn T điều khiển xe máy chở Phạm Văn H và Vũ Văn T ngồi sau mỗi người cầm một con dao. Cả nhóm đi 03 xe gồm 09 người xuống xã G2 sau đó ra bãi tắm Q tìm đánh anh G.
Sau khi nghe điện thoại của C, Nguyễn Anh T điện thoại cho Vũ Khắc Q và Phạm Đức Q đến nhà Nguyễn Anh T. Lúc này Vũ Lê Thiên Q đang có mặt ở nhà Nguyễn Anh T. Nguyễn Anh T bảo Thiên Q sang nhà Nguyễn Văn P lấy cho T 02 con dao (tự chế) T gửi ở đó để xuống nhà C có việc (P là anh em kết nghĩa với Nguyễn Anh T). Khi Thiên Q đến nhà P gặp Trịnh Bá T đang ở đó. Thiên Q bảo với Trịnh Bá T lấy 02 con dao tại nhà P, P đưa cho Trịnh Bá T 02 con dao, Trịnh Bá T đưa cho Thiên Q, Thiên Q bảo Trịnh Bá T là “đến nhà anh C có việc anh em mình xuống xem thế nào”, Trịnh Bá T hỏi “còn xe không” Thiên Q nói “chưa biết được”, Thiên Q cầm 02 con dao về nhà Nguyễn Anh T. Khoảng 19h cùng ngày tại nhà Nguyễn Anh T, T nói với Vũ Khắc Q, Phạm Đức Q, Thiên Q “dưới nhà anh C có việc anh em mình xuống xem thế nào”, cả ba đều đồng ý. Vũ Khắc Q xách túi đồ đựng dao, gậy rút treo lên xe Dream (chưa xác định được BKS) do Vũ Khắc Q điều khiển chở Phạm Đức Q và Trịnh Bá T, Nguyễn Anh T điều khiển xe Airblade (chưa xác định được BKS) chở Thiên Q ngồi sau.
Nguyễn Anh T chở Thiên Q đi trước, Vũ Khắc Q chở Phạm Đức Q sang nhà P đón Trịnh Bá T đi sau. Khi đến ngã ba thị trấn Q, huyện G thì nhóm của Nguyễn Anh T gặp nhóm của C Cả hai nhóm hợp thành một rồi đến nhà nghỉ H thuộc xóm 11, xã G2. C vào gặp hỏi anh Nguyễn Văn B là chủ nhà nghỉ H (anh B là anh rể của anh G)“anh G có ở đó không”, anh B trả lời “không”. Cả nhóm đi ra ki ốt 113 khu du lịch Q tìm đánh anh G. Trên đường đi, Phạm Đức Q sang xe của Nguyễn Anh T ngồi, Vũ Khắc Q đưa túi đựng đồ (dao và tuýp sắt) cho Trịnh Bá T cầm. Khi đến ki ốt 113 thấy anh G đang ngồi ở phòng khách, C đi vào trước, tiếp đó là Vũ Văn T, Đặng Văn V, Vũ Viết T, Phạm Minh Đ, Vũ Khắc Q và Trịnh Bá T cầm dao đứng ở cửa ra vào và một số đối tượng khác đứng ngoài. Khi vào trong phòng khách C đấm vào mặt anh G một cái và nói “mày thách thức cái gì, bây giờ mày thế nào”, cùng lúc này Vũ Văn T cầm dao lao vào chém anh G nhưng không trúng (vì anh G tránh được). Tiếp đó Vũ Viết T, Phạm Minh Đ, Đặng Văn V mỗi người cầm một con dao, Vũ Khắc Q cầm gậy rút lao vào chém vào người anh G nhiều cái. Phát hiện thấy bả vai và tay anh G có máu chảy ra thì Cao Văn C, Vũ VănT, Đặng Văn V, Vũ Viết T, Phạm Minh Đ, Vũ Khắc Q đi ra ngoài. Lúc này anh G cầm chiếc kiếm lấy tại nhà C lúc chiều chạy ra. Thấy vậy Vũ Viết T, Phạm Minh Đ, Vũ Văn T, Vũ Khắc Q, Đinh Văn T tiếp tục quay lại đuổi theo anh G. Đinh Văn T dùng 01 chiếc ghế nhựa ném vào người anh G, anh G chạy ra đến khu vực ngã ba gần ki ốt 99 ném chiếc kiếm xuống bãi và bị ngã. Lúc này Vũ Viết T, Phạm Minh Đ, Vũ Khắc Q tiếp tục cầm dao, gậy rút vụt, chém vào lưng và chân anh G. Thấy anh G nằm gục trên đường cả bọn lên xe đi về. Số dao kiếm gây thương tích cho anh G các đối tượng tập hợp đưa cho Đặng Văn V mang về nhà C cất giấu. Còn anh Đặng Văn G bị thương phải đưa đi điều trị tại Bệnh viện Đa khoa huyện Hải Hậu và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định từ ngày 16/6/2017 đến ngày 23/6/2017 anh G được ra viện với các thương tích cụ thể như sau:
- 01 vết thương vai trái dài 06 cm, 01 vết thương sau 1/3 giữa cánh tay trái dài 10 cm, nông.
- 01 vết thương ngoài khuỷu tay trái dài 12 cm, đứt nguyên khối cơ dưới bám vào lồi cầu ngoài, bạt mất một phần đùi quang, mẻ lồi cầu ngoài;
- 01 vết thương sau trong 1/3 dưới cẳng tay trái dài 3 cm, đứt gân trụ sau, mẻ 1/3 dưới xương trụ;
- 01 vết thương ngoài 1/3 giữa cẳng chân trái, dài 15 cm, nông;
- 01 vết thương trước 1/3 dưới cẳng chân trái dài 6 cm, đứt hoàn toàn gân chày trước và 1/3 gân dưới ngón một;
- 01 vết thương gan bàn tay phải dài 5 cm, nông;
- 01 vết thương ngón IV tay phải dài 2 cm, nông;
- 01 vết thương vành tay trái dài 01 cm, nông;
- 01 vết thương khe ngón I – II tay trái dài 04 cm.
Nhiều vết thương xước da dài, ngắn rải rác lưng và cẳng chân trái, cẳng tay trái. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 017/17/TgT ngày 22/7/2017của Trung tâm Pháp y Sở y tế tỉnh Nam Định đã giám định và kết luận anh Đặng Văn G: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 20%”. Ngày 20/6/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà Cao Văn C, đã thu giữ 01 ba lô và 08 chiếc dao, kiếm có đặc điểm khác nhau các đối tượng khai nhận đã dùng là công cụ để gây thương tích cho anh G và 01 đèn khò tự chế, 01 vỏ chai lavie đã qua sử dụng. Sau khi gây án, Cao Văn C và Đặng Văn V đã liên đới bồi thường cho anh Đặng Văn G số tiền 6.000.000 đồng. Nay anh Giáo không có yêu cầu gì thêm.
Tại cơ quan CSĐT, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Đối với Cao Văn C, Vũ Viết T, Đặng Văn V, Vũ Khắc Q, Trịnh Bá T, Đinh Văn T, Hoàng Anh T và Phạm Văn N cùng toàn bộ vật chứng của vụ án, cũng như việc bồi thường về trách nhiệm dân sự đã được xử lý trong bản án số 99/2017/HSST ngày 27/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, nay vấn đề xử lý không đặt ra.
Bản Cáo trạng số 03/CTR ngày 15/01/2018 của Viên kiêm sat nhân dân huyện Giao Thủy đã truy tố các bị cáo Vũ Văn T và Nguyễn Anh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo: Vũ Văn T và Nguyễn Anh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điêu 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt Vũ Văn T từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/11/2017.
Xử phạt Nguyễn Anh T từ 36 đến 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2017.
Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, các bị cáo được nói lời sau cùng,các bị cáo đều trình bày bản thân nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Căn cứ lời khai của các bị cáo tại phiên tòa; lời khai của người bị hại và những người làm chứng cùng vật chứng, các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, như vậy đã có đủ cơ sở để HĐXX kết luận:
Do vào chiều ngày 16/6/2017 giữa Cao Văn C và anh Đặng Văn G có mâu thuẫn với nhau, đến khoảng 19 giờ ngày 16/6/2017 Cao Văn C đã tụ tập các đối tượng gồm Vũ Viết T, Đặng Văn V, Vũ Khắc Q, Trịnh Bá T, Đinh Văn T, Hoàng Tuấn A, Phạm Văn N, Nguyễn Anh T, Vũ Văn T, Phạm Đức Q, Phạm Văn H, Phạm Minh Đ và Lê Quốc T mang theo dao kiếm đến ki ốt số 113 – khu du lịch Q. Các đối tượng đã dùng dao, kiếm, ống tuýp nước đánh anh Đặng Văn G khiến cho anh G bị thương phải đi điều trị tại bệnh viện từ ngày 16/6/2017 đến ngày 26/6/2017, anh G ra viện với tỷ lệ thương tích là 20%.
Hành vi của các bị cáo Cao Văn C, Vũ Viết T, Đặng Văn V, Vũ Khắc Q, Trịnh Bá T, Đinh Văn T, Hoàng Tuấn A, Phạm Văn N, Vũ Văn T và Nguyễn Anh T đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên hành vi phạm tội của các bị cáo Cao Văn C, Vũ Viết T, Đặng Văn V, Vũ Khắc Q, Trịnh Bá T, Đinh Văn T, Hoàng Tuấn A, Phạm Văn N đã bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử và áp dụng hình phạt trong bản án số 99/2017/HSST ngày 27/12/2017. Quá trình điều tra bị cáo Thắng và Tuấn bỏ trốn, cơ quan điều tra đã tách ra đến nay bắt được Vũ Văn T và Nguyễn Anh T và tiếp tục xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”. Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa 14, HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[2] Viện kiểm sát truy tố hành vi phạm tội của Vũ Văn T và Nguyễn Anh T là có căn cứ pháp luật.
[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Hành vi phạm tội của các bị cáo không những xâm phạm đến sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Chỉ vì lời thách thức của anh G mà các bị cáo đã tụ tập nhau, mang theo dao kiếm, ống tuýp nước để đánh anh G gây thương tích. Điều đó thể hiện sự bất chấp và coi thường pháp luật của các bị cáo. Vì vậy cần phải xử lý các bị cáo bằng pháp luật hình sự, như vậy mới có tác dụng giáo dục các bị cáo cũng như phát huy tính răn đe phòng ngừa chung ngoài xã hội.
Trong vụ án này bị cáo Vũ Văn T và Nguyễn Anh T giữ vai trò tương đương nhau. Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với các bị cáo như sau:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Hai bị cáo Vũ Văn T và Nguyễn Anh T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa thành khẩn khai báo và đều tỏ ra ăn năn hối cải, do vậy các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Các bị cáo đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn; riêng bị cáo Nguyễn Anh T đã ly hôn vợ, hiện đang nuôi 03 con còn nhỏ, là lao động trụ cột trong gia đình và có đơn trình bày điều kiện hoàn cảnh khó khăn và được chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt các bị cáo Vũ Văn T và Nguyễn Anh T bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, có như vậy mới có tác dụng cải tạo các bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội đồng thời mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung ngoài xã hội.
Đối với 02 chiếc xe máy, Nguyễn Anh T khai nhận gồm 01 chiếc xe không xác định biểm kiểm soát Nguyễn Anh T đã đưa cho Vũ Khắc Q điều khiển chở Phạm Đức Q và Trịnh Bá T đi đánh anh G và 01 chiếc xe Nguyễn Anh T sử dụng không biển kiểm soát chở Thiên Q đi đánh anh G, quá trình điều tra Nguyễn Anh T khai cả 02 chiếc xe trên T mượn của chị gái là Nguyễn Thị Kim S và Nguyễn Thị L, CQĐT đã tiến hành điều tra nhưng đến nay không thu giữ được nên việc xử lý không đặt ra.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Về quyền kháng cáo: Các bị cáo và người bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố:
Các bị cáo: Vũ Văn T và Nguyễn Anh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.Áp dụng khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa 14; khoản 2 Điều 134; khoản 3 Điều 7; điểm p khoản 1, khoản 2 Điêu 51; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015.Xử phạt Vũ Văn T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/11/2017.
Xử phạt Nguyễn Anh T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2017.
2. Án phí: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Vũ Văn T và Nguyễn Anh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các bị cáo Vũ Văn T và Nguyễn Anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại anh Đặng Văn G có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 09/2018/HS-ST ngày 09/03/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 09/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về