Bản án 09/2018/HNGĐ-ST ngày 16/04/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 09/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

 

Trong ngày 16 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 251/2017/TLST-HNGĐ ngày 20/12/2017, về tranh chấp Hôn nhân và gia đình - Yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2018/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2018/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị T. T. H., sinh năm 1990;

Địa chỉ: Số 131, ấp C. L. A, xã L. H., thị xã V.C., tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Anh Đ. H. N., sinh năm 1988;

Địa chỉ: ấp Đ. V. Đ., xã V. H., thị xã V. C., tỉnh Sóc Trăng.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt,)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện (yêu cầu tuyên bố quan hệ sống chung không phải là vợ chồng) ngày 19/12/2017 cũng như ý kiến khi tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn T. T. H. trình bày: Vào năm 2010, chị T. T. H. có sống chung nhu vợ chồng cùng với anh Đ. H. N. tại nhà cha mẹ ruột chị H. tại ấp C. L. A, xã L. H., thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng nhưng không có đăng ký kết hôn. Cuộc sống chung hạnh phúc một thời gian, chị T. T. H. và anh Đ. H. N. đã có với nhau một người con chung tên Đ. Q. D., sinh ngày 12/4/2012. Do bất đồng quan điểm làm phát sinh mâu thuẫn, nên cuộc sống chung không còn hòa hợp làm cho tình cảm ngày càng phai nhạt, không còn hạnh phúc, cuộc sống chung mâu thuẫn trầm trọng không thể giải tỏa được nên không thể tiếp tục chung sống được với nhau. Nay chị T.T.H. yêu cầu Tòa án giải quyết, không công nhận quan hệ sống chung với anh Đ. H. N. là quan hệ vợ chồng.

- Về con chung: Chị T. T. H. yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đ. Q. D., không yêu cầu anh N. phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị T. T. H. không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Đối với bị đơn Đ. H. N.: Tòa án đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án nhưng anh N. không có mặt tại nhà nên tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Đ. V. A. là cha ruột của anh N. nhận thấy và cam kết đã giao lại tận tay cho anh N. theo quy định của pháp luật. Anh N. không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn gửi Tòa án. Theo thủ tục tố tụng, Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải, triệu tập hợp lệ bị đơn để tham gia nhưng anh N. vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 10/01/2018 không có lý do. Tòa án tiếp tục thông báo phiên hòa giải, triệu tập hợp lệ bị đơn lần hai, để tham gia nhưng tại phiên hòa giải ngày 09/03/2018 anh N. vẫn vắng mặt không có lý do nên không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo trình tự quy định của pháp luật.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm nghị án tại phiên tòa, Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự khi tham gia tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố không công nhận quan hệ sống chung giữa chị T. T. H. và anh Đ. H. N. là quan hệ vợ chồng; Giao cho chị T. T. H. được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đ. Q. D., ghi nhận ý chí nguyện không yêu cầu anh Đ. H. N. phải cấp dưỡng nuôi con của chị T. T. H.; Về tài sản chung, nợ chung nguyên đơn khẳng định không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong vụ án này, chị H. yêu cầu Tòa án tuyên bố quan hệ sống chung giữa chị T. T. H. và ông Đ. H. N. không phải là quan hệ vợ chồng. Quan hệ pháp luật nêu trên được pháp luật điều chỉnh tại khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn đã xác lập cuộc sống chung vào năm 2010 trên tinh thần tự nguyện và đã có với nhau một người con chung nhưng không đăng ký kết hôn. Xét lời thừa nhận về tình trạng hôn nhân của chị T. T. H. trong quá trình giải quyết vụ án; Căn cứ Biên bản xác minh về quan hệ hôn nhân của chị T. T. H. và anh Đ. H. N. tại Ủy ban nhân dân xã V. H. và xã L. H., thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tại (bút lục số 18 và 19); Căn cứ vào giấy khai sinh con mà nguyên đơn H. cung cấp cho Tòa án, Hội đồng xét xử khẳng định lời trình bày của nguyên đơn T. T. H. Về quan hệ sống chung như vợ chồng giữa chị T. T. H. với anh Đ. H. N. nhưng không đăng ký kết hôn là sự thật, quy định tại điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 92 bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, giữa chị H. và anh N. đang tồn tại quan hệ hôn nhân không hợp pháp, nên chịu sự điều chỉnh của Pháp luật. Vì vậy cần phải căn cứ khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết, tuyên bố quan hệ sống chung giữa chị T. T. H. và anh Đ. H. N. không phải là quan hệ vợ chồng.

[3] Về con chung: Chị T. T. H. và anh Đ. H. N. đã có với nhau một người con chung Đ. Q. D., (nam) sinh ngày 12/4/2012 hiện đang sống với chị H. tại ấp Ca Lạc A, xã L. H., thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng.

Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, chị T. T. H. có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, cháu Đ. Q. D. đã được chị H. trực tiếp chăm sóc, giáo dục từ khi mới sinh ra cho đến nay và hiện đang chung sống với chị H. , cuộc sống của cháu D. vẫn được đảm bảo phát triển tốt về tinh thần và thể chất. Trong khi đó, anh Đ. H. N. không thường xuyên chăm sóc giáo dục con chung, cụ thể là anh N. đã không còn sống chung với chị H. và cháu D. từ đầu năm 2017. Do đó, để đảm bảo được quyền lợi và sự phát triển của cháu D., Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Đ. Q. D. cho chị T. T. H. được trực tiếp nuôi dưỡng.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị T. T. H. trình bày: Nếu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Danh, chị H. không yêu cầu anh N. phải cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận ý chí tự nguyện của nguyên đơn T. T. H. Về việc không yêu cầu bị đơn Đ. H. N. phải cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Tại phiên tòa cũng như trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn T. T. H. không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn T. T. H. phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV.

Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu đã nêu là có căn cứ phù hợp với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, đánh giá tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1, Khoản 2 Điều 143, Khoản 3 Điều 144, Khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228, Khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Tuyên bố quan hệ sống chung giữa chị T. T. H. và anh Đ. H. N. không phải là quan hệ vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cho chị T. T. H. được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đ. Q. D., giới tính nam, sinh ngày 12/4/2012.

Ghi nhận ý chí tự nguyện của chị T. T. H., về việc không yêu cầu anh Đ. H. N. cấp dưỡng cho con.

Trong thời gian chị T. T. H. nuôi con, không ai có quyền ngăn cản sự thăm nom, chăm sóc và giáo dục của cha mẹ đối với con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nguyên đơn T. T. H. phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0000702 ngày 20/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, chị T. T. H. đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo đối với Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, đối với bị đơn thời hạn kháng cáo nêu trên được tính kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày niêm yết bản án hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sựLuật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HNGĐ-ST ngày 16/04/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:09/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về