Bản án 09/2017/HNGĐ-ST ngày 25/07/2017 về khởi kiện xin ly hôn và tranh chấp quyền, nghĩa vụ nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 09/2017/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2017 VỀ KHỞI KIỆN XIN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP QUYỀN, NGHĨA VỤ NUÔI CON

Ngày 25 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 32/2017/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2017 về việc Khởi kiện xin ly hôn và tranh chấp về quyền, nghĩa vụ nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2017/QĐXX-ST ngày 28 tháng 6 năm 2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2017/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Triệu Thị N, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn P, xã Y, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hà Văn B, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn N, xã K, huyện T, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đơn khởi kiện ngày 12 tháng 4 năm 2017 và các bản tự khai của chị Triệu Thị N trình bày: Chị kết hôn với anh Hà Văn B vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, trong quá trình chung sống có 01 người con chung là Hà Ngọc O, sinh ngày 31/8/2008, về tài sản chung không có và các khoản vay và cho vay cũng không có. Trong cuộc sống gia đình ban đầu hạnh phúc sau đó anh B hay đánh cờ bạc, không chịu tu chí làm ăn, chị khuyên bảo mãi không được nên đã chán nản bỏ về nhà mẹ đẻ và sống ly thân từ năm 2010 đến nay. Chị thấy cuộc sống gia đình ngày càng mâu thuẫn nên khởi kiện xin ly hôn với anh Hà Văn B, khi ly hôn chị yêu cầu anh B trực tiếp nuôi con chung và chị N không cấp dưỡng nuôi con vì hiện nay hoàn cảnh kinh tế của chị rất khó khăn, về tài sản chung không có và các khoản vay và cho vay của hai vợ chồng cũng không có.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 15/6/2017 và tại phiên tòa anh Hà Văn B trình bày: Anh kết hôn với chị Triệu Thị N năm 2008, trong quá trình chung sống có 01 người con chung là Hà Ngọc O, sinh năm 2008, về tài sản chung không có gì. Nay chị N xin ly hôn anh cũng nhất trí, khi ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung là Hà Ngọc O và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con; về tài sản và khoản vay và cho vay không có.

Tòa án đã triệu tập nhiều lần để hòa giải nhưng anh Hà Văn B vắng mặt không có lý do, do đó không thể tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu và kết luận về thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật để giải quyết vụ án và các đương sự đã chấp hành theo đúng quy định pháp luật; về quan điểm giải quyết vụ án ý kiến của Vị đại diện viện kiểm sát là chấp nhận yêu cầu của chị Triệu Thị N xin ly hôn với anh Hà Văn B; còn về con chung thấy ý kiến của cháu Hà Ngọc O là được sống với anh B nên cần giao con chung cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng và không buộc chị N cấp dưỡng nuôi con chung vì anh B không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau: Năm 2008 chị Triệu Thị N kết hôn với anh Hà Văn B theo phong tục tập quán địa phương và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện B, tỉnh Lạng Sơn là hôn nhân hợp pháp theo Điều 8; 9 của Luật Hôn nhân và gia đình. Thời gian chung sống hai người có 01 con chung là cháu Hà Ngọc O, sinh ngày 31 tháng 8 năm 2008. Ban đầu hai vợ chồng sống hạnh phúc sau đó xẩy ra mâu thuẫn do hai vợ chồng bất đồng quan điểm do anh B hay đánh bạc và rượu chè nên năm 2010 chị N đã bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống tại thôn P, xã Y, huyện B, tỉnh Lạng Sơn đến nay, nay thấy cuộc sống gia đình ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N xin ly hôn. Tại phiên tòa anh B nhất trí ly hôn với chị N và đề nghị được trực tiếp nuôi con chung là Hà Ngọc O đồng thời không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung. Nhận thấy vợ chồng chị N với anh B cuộc sống hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu của chị Triệu Thị N cho chị N ly hôn với anh Hà Văn B là có căn cứ theo Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, về con chung chị N nhất trí cho anh B trực tiếp nuôi con chung và không cấp dưỡng nuôi con chung, thấy giao con chung cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là có căn cứ theo quy định tại các Điều 68; 69; 70 của Luật Hôn nhân và gia đình và cũng là phù hợp với ý kiến của Vị đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án theo Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình chị Triệu Thị N vẫn có quyền thường xuyên đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung và nếu sau này chị N có yêu cầu thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung anh Hà Văn B không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung nên không buộc chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung, nếu sau này anh B có yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung thì Tòa án vẫn tiến hành giải quyết theo quy định tại Điều 110 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về án phí căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự chị Triệu Thị N là người phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 56; 57; 58, 81; 82; 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

2. Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Triệu Thị N là cho chị Triệu Thị N ly hôn với anh Hà Văn B.

- Về con chung: Giao cháu Hà Ngọc O, sinh ngày 31 tháng 8 năm 2008 cho anh Hà Văn B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến đủ tuổi thành niên. Chị Triệu Thị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung, chị Triệu Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và các khoản vay và cho vay: Không có.

- Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Triệu Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp tại biên lai số 03573 ngày 19 tháng 5 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Xác nhận chị Triệu Thị N đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho nguyên đơn, bị đơn biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể lừ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2017/HNGĐ-ST ngày 25/07/2017 về khởi kiện xin ly hôn và tranh chấp quyền, nghĩa vụ nuôi con

Số hiệu:09/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về