Bản án 08/2021/HSST ngày 27/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 08/2021/HSST NGÀY 27/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2020/TLST-HS ngày 02/12/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/ 2021/QĐXXST-HS ngày 13/01/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân T, Sinh năm 1976.

Nơi ĐKNKTT: Xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa Nơi ở hiện nay: Thôn Đ, xã Q, TP.Thanh Hóa Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Trọng S, sinh năm 1950; và bà: Tạ Thị X, sinh năm 1952; Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1977. Có 02 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2000; TiÒn ¸n:

-Ngày 15/3/2005, bị TAND TP.Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” (ngày 11/8/2007 chấp hành xong hình phạt tù). Đối với 200.000đ tiền bồi thường cho bị hại, 50.000đ án phí hình sự sơ thẩm, 50.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Qua xác minh tại Chi cục THA dân sự TP.Thanh Hóa, tại hồ sơ lưu trữ, thụ lý và ủy thác thi hành án dân sự từ tháng 3/2005 đến hết năm 2009 không có tên Nguyễn Xuân T trú tại thôn Đ, xã Q, TP.Thanh Hóa theo bản án số 46/2005/HSST ngày 15/3/2005. T chưa được xóa án tích do chưa thi hành xong phần thi hành án dân sự.

- Ngày 27/5/2011, bị TAND huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản” (Ngày 25/10/2017 chấp hành xong hình phạt tù, T đã chấp hành 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm, 365.000đ án phí dân sự sơ thẩm; tuy nhiên không có ngày tháng chấp hành ở trong sổ lưu trữ nên không tìm thấy số biên lai thu các khoản trên. Về bồi thường dân sự: T chưa bồi thường, các bị hại cũng chưa có đơn yêu cầu thi hành án gửi Chi cục THA dân sự; do đó T chưa thi hành.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

-Ngày 04/6/2003, bị Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Ngày 09/11/2003 chấp hành xong hình phạt tù. Đối với phần thi hành án dân sự, ngày 25/11/2011 chi cục THADS huyện Quảng Xương ra quyết định đình chỉ thi hành án dân sự đối với T theo Quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án dân sự ngày 17/10/2011 đối với số tiền truy thu còn lại.

-Ngày 16/9/2020, bị TANDTP.Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tạm giữ ngµy15/8/2020. Tạm giam ngày 18/8/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Nguyễn Trung D - SN 1980 (Vắng mặt).

Địa chỉ: SN 02 tổ 5 khu phố Đ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Thọ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Cao Văn H - SN 1984 Địa chỉ: 251 L, phường Đ, TP.Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17h30 phút ngày 14/8/2020, Nguyễn Xuân T đi xe bus từ thành phố Thanh Hóa vào nhà bạn ở thị xã N, tỉnh Thanh Hóa chơi. Do bạn đi vắng nên T đón xe ôm của một người không quen biết ở chợ K, thị xã N để về nhà. Khi đi đến địa phận giáp ranh giữa xã H, thị xã N với xã Q, huyện Q, T thấy xe ô tô đầu kéo BKS 19C-142.80 của anh Nguyễn Trung D (chủ xe), anh Nguyễn Toàn T, sinh năm 1984 (lái xe) từ phía sau vượt lên. T cho rằng xe đầu kéo đánh võng sang làn đường xe mình nên T bảo tài xế xe ôm đuổi theo xe ô tô của anh D. Khi đi đến địa phận thôn N, xã Q, huyện Q thì xe mô tô của T đuổi kịp xe ô tô đầu kéo của anh D.

Người lái xe ôm điều khiển xe đi song song ngang ca bin bên phải xe ô tô đầu kéo, T ra hiệu cho xe ô tô dừng lại. Anh D ngồi ghế phụ nhìn thấy T vẫy tay nên nói qua cửa kính: Có việc gì đấy anh, T nói: Có việc gì thì mày tấp xe vào lề đường nói chuyện, anh T lái xe tấp vào lề đường bên phải, anh D mở cửa xe ô tô hỏi: Anh ơi bọn em có việc gì. Thấy anh D mở cửa xe, T trèo lên ca bin ngồi tại ghế phụ nói: Có việc gì thì mày ngồi lui vào bên trong nói chuyện, T chửi bới: Mày đi lạng lách làm vỡ gương xe hổ vồ của tao. Anh D, anh T trả lời xe của mình không va quệt với xe nào thì T dọa: Mày cãi tao đấm bỏ mẹ mày giờ. Khi thấy anh D ngồi lui vào phía trong, T phát hiện thấy 02 chiếc điện thoại di động Sam sung Galaxy S20 Ultra và Sam sung Galaxy S8 để trên mặt nắp cốp giữa hai ghế xe của anh D nên nảy sinh ý định trộm cắp. Lợi dụng lúc anh D và anh T không để ý, T vòng tay qua sau lưng anh D lấy trộm 02 chiếc điện thoại rồi xuống xe và bảo người lái xe ôm đi về hướng TP.Thanh Hóa. Khi đi đến địa phận thị trấn T, huyện Q, T vào quán điện thoại ven đường bán chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S8 vừa trộm cắp được, nhưng do điện thoại đã cũ, bị vỡ màn hình nên T không bán được. Trên đường về cách cổng bến xe phía Nam TP.Thanh Hóa khoảng 100m, T vứt chiếc điện thoại ở bồn hoa rìa đường. Chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S20 Ultra T đem về cất giấu ở bồn hoa giải phân cách trên đường QL47 gần nhà T. Sáng ngày 15/8/2020 T đem chiếc điện thoại trên đến quán điện thoại của anh Cao Văn H bán được 3.000.000đ, T trả nợ cho anh H 1.000.000đ vay trước đó, còn 2.000.000đ T tiêu sài cá nhân hết. Cùng ngày 14/8/2020, phát hiện thấy bị mất tài sản trên xe nên anh D đã làm đơn báo cáo Công an huyện Quảng Xương đề nghị giải quyết. Do sợ bị phát hiện nên ngày 15/8/2020 T đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Xương đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp 01 mũ lưỡi trai màu đen của T đội khi thực hiện hành vi phạm tội.

Cùng ngày15/8/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Xương đã tiến hành thu giữ điện thoại Sam sung S20 Ultra T đã bán cho Cao Văn H, đồng thời khám xét khẩn cấp nơi ở của T thu 01 áo chống nắng, 01 quần dài dạng rằn ri, 01 đôi giày. Đây là những trang phục T mặc khi thực hiện hành vi phạm tội.

Theo báo cáo của anh Nguyễn Trung D, anh bị kẻ gian lấy cắp 02 chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S20 Ultra và điện thoại Sam sung Galaxy S8 trị giá khoảng 30.000.000đ. Ngày 17/8/2020 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Quảng Xương đã định giá chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S20 Ultra trị giá 25.000.000đ, chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S8 trị giá 5.000.000đ. Tổng trị giá 02 chiếc điện thoại là 30.000.000đ.

Đối với chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S8, T trộm cắp của anh D, nhưng do điện thoại đã cũ, bị vỡ màn hình nên T không bán được và T đã vứt chiếc điện thoại này ở bồn hoa rìa đường. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra thông báo truy tìm vật chứng, tuy nhiên không thu hồi được.

Ngày 27/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Xương đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S20 Ultra cho anh D, anh D đã nhận lại điện thoại Sam sung Galaxy S20 Ultra. Đối với chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S8 không thu hồi được, anh D không yêu cầu T phải bồi thường.

Quá trình điều tra, T khai nhận, mục đích chặn xe anh D là để rằn mặt vì T cho rằng xe của anh D tạt đầu xe của mình. Khi lên xe phát hiện 02 chiếc điện thoại di động nên T mới nảy sinh ý định trộm cắp 02 chiếc điện thoại trên.

Đối với người đàn ông làm nghề xe ôm ở chợ K, thị xã N chở T từ thị xã N về TP.Thanh Hóa. Quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ ở đâu nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với Cao Văn H, là người đã mua chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S20 Ultra; tuy nhiên H không biết nguồn gốc tài sản trên là do T trộm cắp mà có; Do vậy Cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với H là phù hợp.

Đối với số tiền 3.000.000đ anh H mua chiếc điện thoại của T, anh H yêu cầu T phải hoàn trả lại số tiền trên.

Đối với chiếc mũ lưỡi trai màu đen, 01 áo chống nắng, 01 quần dài dạng rằn ri, 01 đôi giày là những trang phục T sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội. Đây là tài sản cá nhân của T cần trả lại cho T là phù hợp.

Tại bản Cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 30/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g Khoản 2 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo trong cáo trạng và đề nghị HĐXX căn cứ: điểm g Khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 56; Điều 38 BLHS.Xử phạt: Nguyễn Xuân T từ 42 đến 45 tháng tù. Tổng hợp với 09 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ của bản hình sự sơ thẩm số 265/2020/HSST ngày 16/9/2020 của TAND TP.Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là từ 04 năm 03 tháng đến 04 năm 06 tháng tù trừ 03 ngày tạm giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ . Bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S20 Ultra. Đối với chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S8 không thu hồi được, anh D không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường.

Đối với số tiền 3.000.000đ, ngày 25/01/2021 anh H có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì nên đề nghị HĐXX không xét.

Đối với 01 chiếc mũ lưỡi trai màu đen, 01 áo chống nắng, 01 quần dài dạng rằn ri, 01 đôi giày. Đây là trang phục của cá nhân của bị cáo, đề nghị HĐXX trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền; trình tự, thủ tục đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2]Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận: Khoảng 18h30 phút ngày 14/8/2020, tại thôn N, xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa, Nguyễn Xuân T cho rằng xe ô tô đầu kéo của anh D đánh võng sang làn đường xe của mình nên đã đuổi theo và yêu cầu dừng lại để nói chuyện. Sau khi đã trèo được lên xe ô tô đầu kéo BKS 19C-142.80 của anh D, lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh D, T đã trộm cắp 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy S20 Ultra và Sam sung Galaxy S8. Tổng trị giá là 30.000.000đ.

[3]Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Với các tài liệu và chứng cứ đã nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội: Trộm cắp tài sản. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS.

[4]Hành vi Trộm cắp của Nguyễn Xuân T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của anh Nguyễn Trung D một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an và an toàn trong khu vực, bị cáo đã lớn tuổi nhưng không chịu khó lao động, tu dưỡng rèn luyện bản thân để làm gương cho con, cháu, bị cáo muốn hưởng thụ trên mồ hôi nước mắt của người khác. Bị cáo trộm cắp nhằm chiếm đoạt tài sản để có tiền tiêu sài cho cá nhân; Vì vậy cần thiết phải xử lý nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

{5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

+Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích lại phạm tội mới do cố ý. Căn cứ khoản 2 Điều 52 BLHS thì các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do vậy, trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân không tốt ngày 04/6/2003, bị phúc thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Ngày 16/9/2020 bị TAND TP.Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo. Sau khi phạm tội đã đến Công an huyện Quảng Xương đầu thú nên áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Xét thấy, cần thiết bắt bị cáo phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục bị cáo sớm trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội. Tổng hợp với 09 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ của bản án Hình sự sơ thẩm số 265/2020/HSST ngày 16/9/2020 của TAND TP.Thanh Hóa, Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[6] Bồi thường dân sự: Bị hại anh D đã nhận lại chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S20 Ultra. Đối với chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S8 không thu hồi được, anh D không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường nên HĐXX không xem xét.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngày 25/01/2021 anh H có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường gì nên HĐXX không xem xét.

[7]Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc mũ lưỡi trai màu đen, 01 áo chống nắng, 01 quần dài dạng rằn ri, 01 đôi giày. Đây là trang phục cá nhân của bị cáo nên HĐXX trả lại cho bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

[8] Án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm g Khoản 2 Điều 173; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; khoản 2 Điều 56; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Nguyễn Xuân T 03 năm 06 tháng tù. Tổng hợp với 09 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ của bản hình sự sơ thẩm số 265/2020/HSST ngày 16/9/2020 của TAND TP.Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 năm 02 tháng 27 ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 15/8/2020.

- Bồi thường dân sự: Bị hại anh D đã nhận lại chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S20 Ultra. Đối với chiếc điện thoại Sam sung Galaxy S8 anh D không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường nên HĐXX không xem xét.

Đối với anh H người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xét.

-Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo T 01 chiếc mũ lưỡi trai màu đen, 01 áo chống nắng có mũ trùm kẻ sọc ô vuông xanh, vàng ; 01 quần dài dạng rằn ri, 01 đôi giày màu trắng. Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

-Án phí: áp dụng Khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Buộc bị cáo Nguyễn Xuân T phải chỊu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại anh D, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

380
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HSST ngày 27/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Xương - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về