Bản án 08/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội giết người và tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 126/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 138/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Minh T, tên gọi khác: không có; sinh năm 1991, tại Đồng Nai. Nơi đăng ký thường trú: khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: Như trên; Nghề nghiệp: Tài xế tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn M, sinh năm 1957 và bà Trần Thị Bích H, sinh năm 1967; Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con đầu, chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt ngày ngày 26/6/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1189/LTG ngày 02/7/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

- Người bị hại: Chị Lê Cẩm T1, sinh năm 1985 (Đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Ông Lê Quang H, sinh năm 1953;

2. Bà Lê Thị Minh N, sinh năm 1958;

Cùng địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện H1, tỉnh Quảng Trị.

Người đại diện theo ủy quyền của ông H, bà N: Chị Lê Bảo T2, sinh năm 1983.

Địa chỉ: khu phố B, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Theo giấy ủy quyền ký ngày 10/7/2020 tại Ủy ban nhân dân xã H. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn M, sinh năm 1957 .

Địa chỉ: khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

- Người làm chứng: Chị Lương Thị K, sinh năm 1984.

Địa chỉ: khu phố N, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Người bào chữa cho bị cáo theo luật định: Ông Phan Thiên V và bà Nguyễn Thị N1 - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Phan Thiên V - Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Lê Cẩm T1, sinh năm 1985, tạm trú tại khu phố B, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai có mối quan hệ tình cảm với Trần Minh T, sinh năm 1991, HKTT: khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai từ tháng 7/2019. Tháng 4/2020 chị T1 và T thuê phòng ở nhà nghỉ “Đ”, địa chỉ khu phố N, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai để tâm sự rồi quan hệ tình dục với nhau, sau đó chị T1 mượn T 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Đến khoảng giữa tháng 06/2020, T đã nhiều lần đòi lại số tiền đã cho chị T1 vay nhưng chị T1 không trả nên ngày 25/6/2020, T và chị T1 hẹn gặp nhau tại nhà nghỉ “Đ” để nói chuyện.

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 26/6/2020, T đón xe Bus đi từ huyện T2 đến nhà nghỉ “Đ”, tại địa chỉ khu phố N, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Trước khi vào nhà nghỉ, T có mua 01 (một) con dao Thái Lan, cán vàng, lưỡi dao bằng kim loại trắng sáng, mũi nhọn dài khoảng 20cm, mục đích là để đe doạ buộc chị T1 phải trả lại tiền. T vào nhà nghỉ gặp chị Lương Thị K, sinh năm 1984 là chủ nhà nghỉ thuê phòng 1xx rồi lên phòng giấu con dao xuống khe nệm ở đầu giường. Khoảng 10 phút sau thì chị T1 đến rồi lên phòng số 1xx. Tại đây, T và chị T1 có quan hệ tình dục với nhau 01 lần. Sau khi quan hệ tình dục với nhau được khoảng 05 phút thì chị T1 mặc đồ và ngồi lên ghế, còn T không mặc đồ và ngồi trên giường nệm. Lúc này T đòi tiền thì chị T1 nói chưa có tiền và xin hẹn lại lần sau vì mẹ chị T1 đang nằm bệnh viện. T nghĩ chị T1 nói dối nên yêu cầu chị T1 phải đưa xe cho T đi cầm cố để lấy tiền trả cho mình nhưng chị T1 không đồng ý và đề nghị T tiếp tục quan hệ tình dục với mình để trừ dần nợ. T nói do mình đang không còn tiền ăn nên yêu cầu chị T1 phải trả tiền, vừa nói T vừa đi đến bàn dùng tay trái lấy chìa khoá của chị T1 để trên bàn thì chị T1 chồm người lên để lấy lại nên đã cào trúng vào hông trái của T, làm T ngã khụy cùi trỏ đập vào thành giường, T tức giận cầm chùm chìa khóa ném vào người chị T1 nhưng không trúng, chị T1 lao đến phía T thì T dùng tay phải lấy dao để dưới khe nệm rồi đâm 01 nhát trúng vào bụng chị T1. Lúc này chị T1 la lớn lên thì T đâm thêm 02 nhát nữa trúng vào vùng ngực của chị T1, con dao bị ghim vào ngực của chị T1. T dùng tay trái bịt miệng chị T1 lại. Được khoảng 01 phút không thấy chị T1 cựa quậy nữa thì T thả tay ra và kiểm tra thấy chị T1 đã chết, T liền kéo xác chị T1 vào nhà tắm, sau đó T rút dao trên ngực chị T1 ra rửa dao và tay cho sạch vết máu rồi T chốt cửa phòng nhà tắm lại và lấy chiếc điện thoại Iphone 6S Plus màu trắng hồng và chùm chìa khóa của chị T1 bỏ vào túi quần bên phải còn con dao thì T bẻ gãy nhét vào túi quần bên trái rồi chốt khóa trong cửa phòng nghỉ. Sau đó T đi bộ ra khỏi nhà nghỉ và thuê xe ôm của anh Nguyễn Đức B, sinh năm 1970, ngụ tại: khu phố S, phường H2, thành phố B trở đến tiệm điện thoại “M” tại ấp A, xã B1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai bán chiếc điện thoại Iphone 6S Plus màu trắng hồng của chị T1 cho anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1985 là chủ tiệm điện thoại được 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng). Sau đó, T tiếp tục đón xe ôm đến nhà nghỉ K1, địa chỉ: xóm 2, tổ 16, ấp T3, xã H2 3, huyện T2, tỉnh Đồng Nai trả tiền phòng để lấy lại chứng minh nhân dân mà T thuê phòng nghỉ trước đó và ném con dao mà T bẻ gãy trước đó vào bãi đất trống bên cạnh nhà nghỉ. Sau đó, T tiếp tục thuê xe ôm đi về nhà bà ngoại T ở thôn T4, ấp A, xã B1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai để trốn thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt giữ.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận giám định số: 3643/C09B ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Viện KHHS (C09B) Bộ Công an kết luận: “Trên bộ quần áo thu của Trần Minh T có dính máu người, phân tích ADN được một kiểu gen nữ giới hoàn chỉnh, trùng với ADN của Lê Cẩm T1” (Bút lục số 80).

Tại Kết luận giám định số: 1322/KLGĐ-PC09 ngày 03 tháng 7 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Các dấu vết đường vân kí hiệu từ A1 đến A4 (thu trên bảng tên P.1xx và gạt tàn thuốc lá màu đỏ) mờ nhòe, chồng lên nhau không đủ yếu tố kết luận giám định (Bút lục số 81).

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 1348 ngày 28/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Dấu hiệu chính trên cơ thể nạn nhân Lê Cẩm T1: 03 vết rách da vùng ngực trái và vùng bụng, mép gọn, một đầu nhọn, một đầu tù. Rách cơ liên sườn 3, 4 bên trái, khoang lồng ngực hai bên có ít máu loãng, hai phổi hơi xẹp màu hồng nhạt; rách mặt trước bao màng ngoài tim rộng, trong bao ngoài màng tim có nhiều máu loãng lẫn máu cục, rách cơ tim tâm thất phải; ổ bụng có nhiều máu loãng, đứt nhu mô gan bờ dưới ngay rãnh liên thùy, đứt dây chằng tròn của gan.

Nguyên nhân tử vong: Sốc mất máu do vết thương vùng ngực, vùng bụng, rách cơ tim, rách nhu mô gan.

Hung khí: Vật sắc nhọn (01 loại).

Cơ chế hình thành thương tích: nạn nhân bị tác động lực trực tiếp bởi vật sắc nhọn vào vùng ngực, vùng bụng theo chiều từ trước ra sau làm rách cơ tim, rách nhu mô gan.

+ Tại Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 5605/STC-HĐĐGTSTTHS ngày 06/10/2020 xác định: 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus màu trắng, hồng, dung lượng 16GB, có số IMEI:353288072646882, sản xuất năm 2015, có giá trị định giá là 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng).

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường hồi 11 giờ 30 phút ngày 26/6/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai thể hiện: Hiện trường tiến hành khám nghiệm tại phòng 1xx nhà nghỉ Đ, địa chỉ : 424/21, khu phố 5, phường T1, thành phố B, các hướng tiếp giáp như sau:

Hướng Đông giáp cầu thang đi bộ. Hướng Tây giáp phòng 110. Hướng Nam giáp nhà dân.

Hướng Bắc giáp hành lang đi lại.

Tại bản Cáo trạng số 2470/CT-VKS-P2 ngày 05/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Giết người” theo các điểm e, n khoản 1 Điều 123 và tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm e, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo mức án từ 18 năm đến 20 năm tù về tội “Giết người”; từ 04 năm đến 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Về biện pháp tư pháp đề nghị xem xét, giải quyết theo Cáo trạng và trách nhiệm dân sự buộc bồi thường theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo theo luật định phát biểu ý kiến:

Thống nhất tội danh Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết cho bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình khắc phục hậu quả, nguyên nhân bị cáo gây án là do bị cáo khó khăn trong kinh tế, bị hại có phần lỗi, hành vi của bị cáo không mong muốn tước đoạt tính mạng chị T1 ngay từ đầu mà chỉ bộc phát để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm về hòa nhập cộng đồng xã hội và tạo điều kiện bị cáo bù đắp cho con chị T1.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn hối hận về hành vi của mình, xin lỗi gia đình bị hại và mong được tha thứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi của bị cáo thực hiện trong vụ án:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh T khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 26/6/2020, tại phòng 1xx nhà nghỉ “Đ”, địa chỉ: khu phố N, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, bị cáo đã có hành vi dùng dao đâm 03 nhát vào vùng ngực và bụng chị Lê Cẩm T1 làm chị T1 chết tại chỗ. Sau đó, T lấy chiếc điện thoại iphone 6S plus màu trắng, hồng của chị T1, trị giá 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng) đem đi bán được 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng) tiêu xài. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày thì bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai bắt giữ để điều tra, xử lý.

Hành vi của bị cáo Trần Minh T đã phạm vào tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm e, n khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Trong vụ án này, bị cáo và người bị hại có quan hệ tình cảm với nhau nhưng chỉ vì số tiền 3.000.000 đồng mà bị cáo đã vô cớ có hành vi dùng dao đâm chết người bị hại sau đó cướp lấy tài sản của người bị hại mang đi bán và tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo thực hiện hết sức côn đồ, dã man, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, bất chấp, xem thường pháp luật.

Tình tiết tăng nặng: không có Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã. Ông Trần Văn M là cha ruột bị cáo Trần Minh T đến nhà gia đình nạn nhân Lê Cẩm T1 03 lần để thăm hỏi và bồi thường số tiền: 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) nhưng gia đình chị T1 không nhận. Ngoài ra, gia đình của bị cáo T còn cam kết sẽ chu cấp hàng tháng cho con trai của chị T1 mỗi tháng 1.000.000đ và đã đưa cho đại diện gia đình chị Lê Bảo T2 (là chị ruột của chị T1) số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng). Tại phiên tòa, gia đình bị cáo và gia đình bị hại xác nhận chị Lê Bảo T2 (là chị ruột của chị T1) đã trả lại số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng). Tuy nhiên, bị cáo đã tác động gia đình nộp số tiền 40.000.000đ để khắc phục hậu quả tại Biên lai thu tiền số 001793 ngày 27/11/2020 và 001901 ngày 11/01/2021. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Tại cơ quan điều tra, người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo Trần Minh T bồi thường: Chi phí mai táng số tiền 82.262.000đ, bồi thường tổn thất tinh thần số tiền 172.800.000đ, bồi thường cấp dưỡng cho người nuôi cháu Lê Hoàng K2 (con ruột của chị T1) đến năm 18 tuổi số tiền 270.000.000đ, bồi thường cấp dưỡng cho cháu Lê Hoàng K2 (con ruột của T1) đến năm 18 tuổi số tiền 600.000.000đ, bồi thường bù đắp bốn năm đại học và tiền trượt giá số tiền 1.427.200.000đ. Tổng cộng là 2.552.262.000đ (Hai tỷ năm trăm năm mươi hai triệu hai trăm sáu mươi hai nghìn đồng).

Tại phiên tòa, qua phần xét hỏi người đại diện hợp pháp của bị hại xác định lại yêu cầu bồi thường theo pháp luật và bị cáo đồng ý bồi thường chi phí mai táng số tiền 82.262.000đ, tổn thất tinh thần bằng 100 lần tháng lương cơ sở 1.490.000đ x 100 = 149.000.000đ, tự nguyện hỗ trợ gia đình bị hại số tiền 50.000.000đ, tổng cộng là 281.262.000đ và cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000đ nuôi dưỡng cháu Lê Hoàng K2 (con ruột của chị T1) từ ngày 26/6/2020 đến khi cháu K2 18 tuổi và có khả năng lao động.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai cơ bản phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử về tội danh nên ghi nhận.

[5] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo theo luật định chỉ phù hợp một phần nhận định của Hội đồng xét xử về tình tiết giảm nhẹ nên ghi nhận một phần.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ 01 gọng mắt kính bên trái; 01 mắt kính râm màu đen không có gọng kính bên trái; 01 đôi dép màu đỏ sẫm; 01 túi ni lông màu đen (bị rách) buộc túm 01 đầu bên trong không có gì; 01 vỏ nhựa mặt trên màu đỏ kí hiệu 001, mặt dưới màu đen; 02 chiếc khăn màu trắng dính chất màu đỏ (nghi máu); 02 điếu thuốc lá Jet đã hút dở còn mới; 01 điếu thuốc là Jet đã hút dở trong bồn cầu; 02 bao cao su (trong đó có 01 bao cao su có dịch màu trắng đục); 01 áo thun, màu trắng phía trước ngực có chữ TOMMY; 01 quần Jean, màu xanh dương nhạt của bị can T mặc khi gây án cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 cán dao bị gãy lưỡi dài khoảng 10cm, cán dao màu vàng hiệu “Kiwi”, một phần lưỡi dao còn gắn với cán dao dài 2,5 cm. Đây là con dao T dùng để đâm chị T1 cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 số dấu vết đường vân thu trên bảng tên P.1xx và gạt tàn thuốc lá màu đỏ (được lưu hồ sơ vụ án).

+ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 60B8- 31xxx là của nạn nhân Lê Cẩm T1 đi đến hiện trường vụ án. Qua điều tra xác định chiếc xe trên do chị Hoàng Thị H1, sinh năm 1983, địa chỉ: ấp C, xã B2, huyện T2, tỉnh Đồng Nai đứng tên đăng ký. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã xác minh tại Công an xã Bàu Hàm xác định chị H1 có hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng đã bỏ địa phương đi nơi khác từ lâu, hiện không rõ chị H1 làm gì, ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai chưa làm việc được với chị H1 để xác định tài sản này thuộc quyền sở hữu của ai nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai sẽ tách ra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus màu trắng, hồng, dung lượng 16GB, có số IMEI:353288072646882, sản xuất năm 2015 của chị Lê Cẩm T1, cần trả lại cho đại diện hợp pháp bị hại.

+ 01 Chiếc điện thoại nhãn hiệu Viettel màu vàng đồng. Quá trình điều tra T khai điện thoại trên là mượn của ông Trần Văn M là cha ruột của T để sử dụng cần trả lại cho ông M.

+ Số tiền: 130.000đ (Một trăm ba mươi nghìn đồng). Đây là số tiền T bán chiếc điện thoại iPhone 6S Plus của chị T1 nhưng chưa tiêu xài hết là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

+ 01 USB màu đỏ đen; 01 thẻ nhớ MicroSD; 01 USB màu đỏ, chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh của bị cáo (được lưu hồ sơ vụ án).

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 14.063.100đ (=281.262.000đ x 5%) án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”.

Căn cứ vào các điểm a, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168; các điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Trần Minh T: Chung thân về tội “Giết người” và 03 (Ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là: Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2020.

Tiếp tục giam bị cáo Trần Minh T để đảm bảo thi hành án.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 590 và 591 Bộ luật dân sự năm 2015;

Buộc bị cáo Trần Minh T phải bồi thường cho ông Lê Quang H và bà Lê Thị Minh N là người đại diện hợp pháp của bị hại số tiền tổng cộng 281.262.000đ (Hai trăm tám mươi mốt triệu hai trăm sáu mươi hai triệu đồng). Không chấp nhận các yêu cầu bồi thường chi phí cho người nuôi cháu K2 và tiền nuôi bốn năm đại học cháu K2.

Về phần cấp dưỡng nuôi cháu Lê Hoàng K2, sinh ngày 26/7/2013: Bị cáo tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu K2 mỗi tháng 2.000.000đ, giao cho ông Lê Quang H và bà Lê Thị Minh N là giám hộ đương nhiên của cháu K2. Thời điểm cấp dưỡng được tính từ ngày 26/6/2020 cho đến khi cháu K2 đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

[3] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

-Tịch thu tiêu hủy: 01 gọng mắt kính bên trái; 01 mắt kính râm màu đen không có gọng kính bên trái; 01 đôi dép màu đỏ sẫm; 01 túi ni lông màu đen (bị rách) buộc túm 01 đầu bên trong không có gì; 01 vỏ nhựa mặt trên màu đỏ kí hiệu 001, mặt dưới màu đen; 02 chiếc khăn màu trắng dính chất màu đỏ (nghi máu); 02 điếu thuốc lá Jet đã hút dở còn mới; 01 điếu thuốc là Jet đã hút dở trong bồn cầu; 02 bao cao su (trong đó có 01 bao cao su có dịch màu trắng đục);

01 áo thun, màu trắng phía trước ngực có chữ TOMMY; 01 quần Jean, màu xanh dương nhạt của bị can T mặc khi gây án; 01 cán dao bị gãy lưỡi dài khoảng 10cm, cán dao màu vàng hiệu “Kiwi”, một phần lưỡi dao còn gắn với cán dao dài 2,5 cm.

- Trả lại: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus màu trắng hồng, dung lượng 16GB, có số IMEI:353288072646882, sản xuất năm 2015 đại diện hợp pháp của bị hại; Trả lại 01 Chiếc điện thoại nhãn hiệu Viettel màu vàng đồng cho ông Trần Văn M.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 130.000đ (Một trăm ba mươi nghìn đồng).

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai, giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 09/11/2020 và theo biên lai thu tiền số 001793 ngày 27/11/2020 và số 001901 ngày 11/01/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai).

Kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành án với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 14.063.100đ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội giết người và tội cướp tài sản

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về