Bản án 08/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

 Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 229/2020/TLST-HS, ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 241/2020/QĐXXST-HS, ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

- Võ Cao P, sinh ngày 02/9/1999, tại huyện B, tỉnh Kiên Giang; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Ấp T, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa:09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Thanh T1 và bà Cao Thị Thu T2; chị sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: không có; bị bắt tạm giữ ngày 31/8/2020.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Phan Văn T, sinh ngày 19/10/1988, tại huyện H, tỉnh Kiên Giang; nơi đăng ký HKTT: ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Tiến D và bà Nguyễn Thị Đ; chị, em ruột; có 03 người, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: không có; bị bắt tạm giữ ngày 31/8/2020.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Thanh T1, sinh năm 1972 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp T, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

* Người làm chứng:

- Nguyễn Tăng Vinh Q, sinh năm 1969 (vắng mặt);

Địa chỉ: số 302B, đường L, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

- Đặng Quang C, sinh năm 1985 (vắng mặt);

Địa chỉ: số 342A, đường L, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 50 phút, ngày 31/8/2020, Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 4 - Bộ tư lệnh Cảnh sát biển phối hợp với Công an phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá tiến hành bắt quả tang Phan Văn T và Võ Cao P có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực trước nhà số 388A, ngã tư đường L và Đ thuộc phường V, thu giữ trong túi phía trước bên phải của quần Jean ngắn mà T đang mặc 01 hộp bằng kim loại màu xanh lá cây, bên ngoài hộp có dòng chữ “DOUBLEMINT”, bên trong hộp có 01 bịch nylon màu trắng chứa chất ma túy gồm 08 viên nén màu hồng hình trái tim và 01 viên nén màu vàng nhạt nên đã tạm giữ T, P và niêm phong vật chứng. Ngoài ra, Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 4 - Bộ tư lệnh Cảnh sát biển còn thu giữ 01 điện thoại di động màu xanh dương bên ngoài có chữ Samsung, đã qua sử dụng, bị bể màn hình, có số thuê bao 0947630396, số Serial 89840-20001-05128-01622 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Blade, màu đen - trắng, mang biển kiểm soát 68E1 - 305.94 của Võ Cao P;

01 giấy chứng minh nhân dân số 371202154 tên Phan Văn T; 01 bản photocopy giấy chứng minh nhân dân số 371915338 tên Võ Cao P (bút lục số 01 đến 05, 88, 103 đến 114).

Qua quá trình điều tra, xác định P và T có mối quan hệ quen biết do cùng làm chung sân tập Golf P tại khu đô thị P thuộc phường A, thành phố R. Từ khoảng tháng 7/2020, P và T đã cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy, loại MDMA (thường gọi là thuộc lắc), nguồn gốc số ma túy P và T sử dụng là do mua của 01 người nam giới gọi là H (không rõ tên thật, địa chỉ) do P quen biết trước đó ngoài xã hội. Khi có nhu cầu mua ma túy, P sử dụng điện thoại di động của P gọi cho H (không nhớ rõ số điện thoại của H) để thỏa thuận số ma túy cần mua, H sẽ hẹn thời gian giao ma túy, địa điểm là tại Công viên A thuộc phường B, thành phố R. Bằng cách thức như trên, P và T đã mua ma túy của H nhằm mục đích sử dụng tổng cộng 03 lần, cụ thể như sau:

Lần 1: Vào tháng 7/2020 (không nhớ rõ ngày), P và T có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy nên đã cùng nhau góp mỗi người 150.000 đồng, P sử dụng điện thoại di động gọi cho H để thỏa thuận mua 01 viên thuốc lắc với giá 300.000 đồng, H đồng ý và hẹn giao ma túy cho P, T tại Công viên A. Sau khi mua được ma túy, P và T cùng nhau sử dụng hết tại nhà vệ sinh của sân tập Golf P.

Lần 2: Vào ngày 27/8/2020, P và T có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy nên đã cùng nhau góp mỗi người 200.000 đồng, P sử dụng điện thoại di động gọi cho H để thỏa thuận mua 02 viên thuốc lắc với giá 400.000 đồng, H đồng ý và hẹn giao ma túy cho P, T tại Công viên A. Sau khi mua được ma túy, P và T cùng nhau sử dụng hết tại quán Karaoke 37 trên đường 3, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Lần 3: Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 31/8/2020, P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Blade, màu đen - trắng, mang biển kiểm soát 68E1 - 305.94 (xe do P mượn của cha ruột là ông Võ Thanh T1 để đi làm hàng ngày) đi đến xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang để rước T đi làm chung tại sân tập Golf P. Khi gặp nhau, P rủ T góp mỗi người 1.500.000 đồng để mua ma túy sử dụng thì T đồng ý, P sử dụng điện thoại di động gọi cho H để thỏa thuận mua 09 viên thuốc lắc với giá 3.000.000đồng, H đồng ý. Khoảng 10 phút sau, P điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 68E1 - 305.94 chở T đi đến Công viên A để gặp H. Tại đây, H đưa cho P và T 01 hộp bằng kim loại màu xanh lá cây, bên ngoài hộp có dòng chữ “DOUBLEMINT”, bên trong hộp có 01 bịch nylon màu trắng chứa chất ma túy gồm 08 viên nén màu hồng hình trái tim và 01 viên nén màu vàng nhạt, P và T kiểm tra xong thì P đưa cho H 3.000.000 đồng. T cất hộp kim loại đựng số ma túy trên vào túi phía trước bên phải của quần Jean ngắn mà T đang mặc. Sau đó, P tiếp tục điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 68R1-30594 chở T đến khu vực trước nhà số 388A, ngã tư đường L và đường Đ thuộc phường V, thành phố R thì bị Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 4 - Bộ tư lệnh Cảnh sát biển bắt quả tang. Ngày 04/9/2020, Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 4 - Bộ tư lệnh Cảnh sát biển khởi tố vụ án và chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Rạch Giá. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Rạch Giá khởi tố bị can, ra Lệnh tạm giam đối với P và T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Các bị cáo Võ Cao P, Phan Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Võ Cao P, Phan Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Vật chứng thu được:

- 01 hộp bằng kim loại màu xanh lá cây, bên ngoài hộp có dòng chữ “DOUBLEMINT”, bên trong hộp có 01 bịch nylon màu trắng có rãnh cài, kích thước 04cm x 06cm chứa chất ma túy gồm 08 viên nén màu hồng hình trái tim và 01 viên nén màu vàng nhạt, đã được niêm P trong một P bì màu trắng có chữ ký của người bị bắt Phan Văn T và Võ Cao P, người chứng kiến Nguyễn Tăng Vinh Q và Đặng Quang C, Phó đội trưởng Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 4 - Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Võ Anh L và dấu mộc đỏ của Công an phường V.

- 01 điện thoại di động màu xanh dương bên ngoài có chữ Samsung, đã qua sử dụng, bị bể màn hình, có số thuê bao 0947630396, số Serial 89840-2001-05128-01622.

- 01 xê mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Blade, màu đen - trắng mang biển kiểm soát 68E1-305.94 đã trả lại cho ông Võ Thanh T1 (do ông T1 không biết việc Võ Cao P sử dụng xe mô tô trên để đi mua ma túy).

- 01 giấy chứng minh nhân dân số 371202154, tên Phan Văn T, đã trả lại cho Phan Văn T.

- 01 bản photocopy giấy chứng minh nhân dân số 371915338, tên Võ Cao P (đã lưu hồ sơ vụ án).

* Tại bản kết luận giám định số 738/KL-KTHS, ngày 03/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận:

- 08 viên nén màu hồng hình trái tim chứa trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA. Khối lượng mẫu gửi giám định là 2,8213gam.

- 01 viên nén màu vàng nhạt chứa trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3579gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

* Theo bản cáo trạng số: 240/CT.VKSRG ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang truy tố các bị cáo Võ Cao P, Phan Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Võ Cao P mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Phan Văn T mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi niêm phong mẫu vật, vụ số 738/2020, ngày 03/9/2020 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh T3, người chứng kiến Võ Ánh L, dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên trong có chứa chất ma túy còn lại sau khi giám định; 01 hộp bằng kim loại màu xanh lá cây, bên ngoài hộp có dòng chữ “DOUBLEMINT”, là công cụ sử dụng để cất giấu chất ma túy trong vụ án.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động màu xanh dương bên ngoài có chữ Samsung, đã qua sử dụng, số thuê bao 0947630096, số Serial 89840-20001- 05128-01622.

Theo quyết định chuyển vật chứng 154/QĐ-VKSRG, ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá.

Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi HĐXX vào phòng nghị án: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay các bị cáo Võ Cao P, Phan Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu; lời nhận tội trên phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, của những người tham gia tố tụng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Do có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy, loại MDMA (thường gọi là thuốc lắc) nên Võ Cao P và Phan Văn T đã góp tiền mua ma túy của 01 người nam giới gọi là H (không rõ tên thật, địa chỉ) tổng cộng 03 lần tại Công viên A, thuộc phường B, thành phố R. Trong đó, có 01 lần mua 01 viên ma túy với giá 300.000 đồng vào tháng 7/2020 (không nhớ rõ ngày) và 01 lần mua 02 viên ma túy với giá 400.000 đồng vào ngày 27/8/2020. Đến khoảng 14 giờ ngày 31/8/2020, P và T tiếp tục góp tiền mua 09 viên ma túy của H với giá 3.000.000 đồng để sử dụng. Khi gặp nhau tại Công viên A, H giao cho P và T 01 hộp bằng kim loại màu xanh lá cây, bên ngoài hộp có dòng chữ “DOUBLEMINT”, bên trong hộp có 01 bịch nylon màu trắng chứa ma túy gồm 08 viên nén màu hồng hình trái tim và 01 viên nén màu vàng nhạt, T cất số ma túy trên vào phía trước bên phải của quần Jean ngắn mà T đang mặc. Sau đó, P và T tiếp tục đi đến khu vực trước số nhà 388A, ngã tư đường L và đường Đ thuộc phường V, thành phố R thì bị Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy số 4 - Bộ tư lệnh Cảnh sát biển bắt quả tang, thu giữ 09 viên ma túy, loại MDMA, khối lượng tổng cộng là 3,1792gam. Đến ngày 04/9/2020, P và T cùng bị khởi tố, tạm giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của các bị cáo Võ Cao P, Phan Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Xuất phát từ việc muốn có ma túy sử dụng mà các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, cần xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người công dân tốt; đồng thời cũng nhằm góp phần ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Theo bản luận tội mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi niêm phong mẫu vật, vụ số 738/2020, ngày 03/9/2020 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh T3, người chứng kiến Võ Ánh L, dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên trong có chứa chất ma túy còn lại sau khi giám định; 01 hộp bằng kim loại màu xanh lá cây, bên ngoài hộp có dòng chữ “DOUBLEMINT”, là công cụ sử dụng để cất giấu chất ma túy trong vụ án.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động màu xanh dương bên ngoài có chữ Samsung, đã qua sử dụng, số thuê bao 0947630096, số Serial 89840-20001- 05128-01622.

Theo quyết định chuyển vật chứng 154/QĐ-VKSRG, ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với người nam giới gọi là H đã bán ma túy 03 lần cho các bị cáo tại Công viên A thuộc phường B, thành phố R, hiện chưa xác định được tên thật, địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố: Bị cáo Võ Cao P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Võ Cao P mức án 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 31/8/2020) và tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Phan Văn T mức án 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 31/8/2020) và tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi niêm phong mẫu vật, vụ số 738/2020, ngày 03/9/2020 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh T3, người chứng kiến Võ Ánh L, dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên trong có chứa chất ma túy còn lại sau khi giám định; 01 hộp bằng kim loại màu xanh lá cây, bên ngoài hộp có dòng chữ “DOUBLEMINT”, là công cụ sử dụng để cất giấu chất ma túy trong vụ án.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động màu xanh dương bên ngoài có chữ Samsung, đã qua sử dụng, số thuê bao 0947630096, số Serial 89840-20001- 05128-01622.

Theo quyết định chuyển vật chứng 154/QĐ-VKSRG, ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 08/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về