TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 73/2021/HSST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trịnh Tuấn T - Giới tính: Nam. (Có mặt) Sinh ngày: 25/9/1997. Nơi sinh: Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nơi ĐKTT: Số 74/2 đường N, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
Chỗ ở: Như trên.
Nghề nghiệp: Làm thuê - Trình độ học vấn: 12/12 - Dân tộc: Kinh.
Tôn giáo: Không - Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông Trịnh Minh T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Hồng V (1974).
* Tiền án, Tiền sự: Chưa.
Bị bắt tạm giữ: Ngày 29/12/2020.
Bị cáo tại ngoại: Ngày 07/01/2021 cho đến nay.
* Người làm chứng :
1. Anh Bùi Điền T, Sinh năm: 2004. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số A2-Căn 12 đường T, phường A, thành phố R, tỉnh K.
2. Anh Trương Văn T, Sinh năm: 1996. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 262, ấp S, xã N, huyện H, tỉnh K.
3. Anh Đào Minh H, Sinh năm: 1999. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 177/47 đường M, phường V, thành phố R, tỉnh K.
4. Anh Hồng Song H, Sinh năm: 1997. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 382/5A đường N, phường V, thành phố R, tỉnh K.
5. Anh Bùi Chí Th, Sinh năm: 1999. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
6. Anh Lê Ngọc Vĩ K, Sinh năm: 2001. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp X, xã H, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
7. Chị Trương Thị L, Sinh năm: 1997. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp S, xã N, huyện H, tỉnh Kiên Giang.
8. Chị Nguyễn Thị Hoài T, Sinh năm: 1998. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
9. Chị Bùi Thị Minh H, Sinh năm: 2000. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 177/47 đường M, phường V, thành phố R, tỉnh K.
10. Chị Dương Nguyễn Yến N, Sinh năm: 1998. (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn Thứ 3, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
* Người chứng kiến:
1. Bà Phạm Thị L, Sinh năm: 1960. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 537 đường P, phường V, thành phố R, tỉnh K.
2. Ông Phạm Vân T, Sinh năm: 1963. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 932/3 đường N, khu phố 2, phường A, thành phố R, tỉnh K.
3. Ông Lê Huệ T, Sinh năm: 1976. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 230 đường C, phường V, thành phố R, tỉnh K.
* Người đại diện hợp pháp của người làm chứng:
- Bà Trần Phương L, Sinh năm: 1976. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số A2-Căn 12 đường T, phường A, thành phố R, tỉnh K.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 02 giờ 30 phút ngày 29/12/2020, tại phòng trọ số 239 nhà trọ Quyên Quyên ở số 537 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, Trịnh Tuấn T đã bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Rạch Giá kết hợp với Công an phường Vĩnh Lạc kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên nền gạch và trên nệm trong phòng trọ 03 (ba) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu xanh và 03 (ba) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu cam bên trong có chứa các hạt chất rắn màu trắng không đồng nhất, cùng với 01 (một) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu cam bên trong có chứa 09 (chín) viên nén màu cam. Qua điều tra xác định, Trịnh Tuấn T bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2016, loại ma túy sử dụng là Khay và thuốc lắc, nguồn gốc ma túy là do mua của nhiều người (không rõ họ tên và địa chỉ). Ngày 27/12/2020, T đi xe khách đến khu vực Bến xe miền Tây tại Thành phố Hồ Chí Minh mua 06 (sáu) bịch ma túy loại Khay với giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ), mục đích đem về sử dụng dần. Ngày 28/12/2020, T đem 06 (sáu) bịch ma túy cất vào túi màu đen đeo trên người rồi đến quán bar Paradise trên đường Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Lạc để dự tiệc sinh nhật bạn. Tại đây, T mua thêm 10 (mười) viên ma túy loại thuốc lắc của một thanh niên trong quán bar (không rõ họ tên, địa chỉ) với giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Sau đó, T lấy một viên thuốc lắc bỏ vào ly bia cùng nhóm bạn gồm Bùi Điền T, Trương Văn T, Đào Minh H, Hồng Song H, Bùi Chí T, Lê Ngọc Vĩ K, Trương Thị L, Nguyễn Thị Hoài T, Nguyễn Bùi Thị Minh H, Dương Nguyễn Yến N sử dụng, 09 (chín) viên ma túy còn lại T cất giấu vào túi đeo bên người. Đến khoảng 02 giờ ngày 29/12/2020, T cùng nhóm bạn có tên nói trên đến thuê phòng trọ số 239 nhà trọ Quyên Quyên để nghỉ ngơi và nghe nhạc thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Tuấn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung vụ án đã nêu trên.
* Tại bản Kết luận giám định số 1106/KL-KTHS ngày 03/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận như sau:
- Các hạt chất rắn màu trắng, không đồng nhất chứa trong 03 (ba) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu xanh, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định có trọng lượng là 1,2457 gam.
- Các hạt chất rắn màu trắng, không đồng nhất chứa trong 03 (ba) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu cam, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định có trọng lượng là 4,9832.
- 09 (chín) viên nén màu cam chứa trong 01 (một) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu cam, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA. Khối lượng mẫu gửi giám định có trọng lượng là 3,2786 gam.
Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. (Bút lục số: 30-31).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Bản cáo trạng số 70/CT-VKSRG ngày 05/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo Trịnh Tuấn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích và đánh giá mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trịnh Tuấn T - mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị:
- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng, gồm: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi “Niêm phong mẫu vật, vụ số 1106/2020 ngày 06/01/2021”, có chữ ký của giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Phạm Huỳnh Thanh L; 01 (một) đầu thuốc lá hiệu 555; 01 (một) cái túi đeo màu đen, đã qua sử dụng.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Tiền Việt Nam 10.000 đồng (Mười nghìn đồng) theo giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 04/02/2021.
(Theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 60/QĐ-VKS, ngày 05/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá).
Sau khi nghe Kiểm sát viên luận tội, bị cáo đồng ý với quan điểm truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo. Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình và ăn năn hối hận, có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bảng Cáo trạng, kết luận điều tra và lời khai của những người tham gia tố tụng khác, cùng các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và vật chứng đã thu giữ. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:
Vào lúc 02 giờ 30 phút ngày 29/12/2020, tại phòng trọ số 239 nhà trọ Quyên Quyên ở số 537 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, Trịnh Tuấn T đã bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Rạch Giá kết hợp với Công an phường Vĩnh Lạc bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên nền gạch và trên nệm trong phòng trọ 06 (sáu) bịch nylon chứa các hạt chất rắn màu trắng, qua giám định là chất ma túy, loại Ketamine, có trọng lượng 6,2289 gam và 01 (một) bịch nylon chứa 09 (chín) viên nén màu cam, qua giám định là chất ma túy, loại MDMA, có trọng lượng là 3,2786 gam.
Hành vi nêu trên của bị cáo Trịnh Tuấn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bảng Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhận thấy: Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực hành vi và có đủ khả năng để nhận thức được rằng sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, bất kì ai vi phạm đều sẽ bị xử lý nghiêm. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, nên bị cáo rất rõ tác hại và ảnh hưởng của ma túy đối với sức khỏe, tinh thần của con người và việc sử dụng ma túy cũng là tiền đề tạo ra nhiều tệ nạn xấu, đặc biệt là dễ dẫn đến nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác làm mất trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến bản thân bị cáo nói riêng và cộng đồng xã hội nói chung, và Nhà nước luôn chú trọng việc đấu tranh phòng ngừa và xử lý nghiêm đối với loại tội phạm này. Nhưng vì để có ma túy sử dụng cho thỏa mãn cơn nghiện của mình, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật cố ý mua và tàng trữ ma túy trái phép để sử dụng. Do đó, cần có một mức hình phạt thật tương xứng đối với tội trạng của bị cáo, và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, đồng thời cũng nhằm ngăn ngừa chung đối với loại tội phạm này trong xã hội.
[4] Về nhân thân và các Th tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội đã tích cực khai báo và giúp Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thành phố Rạch Giá triệt phá được nhiều vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy khác theo như Công văn số 204/CV-CSĐT ngày 26/4/2021 của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã nêu. Đây là các Th tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng các Th tiết nêu trên làm Th tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.
[5] Về các Th tiết tăng nặng: Bị cáo không có Th tiết tăng nặng nào được quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định, cũng như không có tài sản gì; đồng thời bị cáo cũng không có đảm nhiệm chức vụ, không hành nghề cũng như không làm công việc gì nhất định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. [7] Về xử lý vật chứng:
- Đối với các vật chứng thu giữ được khi bắt bị cáo gồm:
+ 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi “Niêm phong mẫu vật, vụ số 1106/2020 ngày 06/01/2021”, có chữ ký của giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Phạm Huỳnh Thanh L; 01 (một) đầu thuốc lá hiệu 555; 01 (một) cái túi đeo màu đen, đã qua sử dụng, đây là những vật chứng liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy.
+ Tiền Việt Nam 10.000 đồng (Mười nghìn đồng), là tiền bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
- Đối với các tài sản thu giữ được khi bắt bị cáo gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xanh, số Imei 353059111539523 (đã trả lại cho bị cáo Trịnh Tuấn T); 01 (một) máy tính xách tay hiệu DELL, màu xám + 03 (ba) cái loa màu đen hiệu F&D + 01 (một) ổ điện màu vàng + 01 (một) bộ phận đèn chiếu hiệu RGB + 01 (một) điện thoại di động Iphone, màu đen, số Imei 355837082325503 (đã trả lại cho anh Lê Ngọc Vỹ K). Việc trả lại các tài sản này do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo là đúng quy định, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Căn cứ Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về các vấn đề khác của vụ án:
- Đối với những người đã bán ma túy cho Trịnh Tuấn T (không rõ họ tên và địa chỉ) tại khu vực bến xe miền Tây, Thành phố Hồ Chí Minh và trong quán bar Paradise trên đường Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
- Đối với Bùi Điền T, Trương Văn T, Đào Minh H, Hồng Song H, Bùi Chí T, Lê Ngọc Vĩ K, Trương Thị L, Nguyễn Thị Hoài T, Nguyễn Bùi Thị Minh H, Dương Nguyễn Yến N không biết việc bị cáo T tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá không xử lý hình sự, chuyển hồ sơ về cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Tuấn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trịnh Tuấn T – 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo vào chấp hành án. Được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ trước từ ngày 29/12/2020 đến ngày 07/01/2021.
* Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:
- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng, gồm: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi “Niêm phong mẫu vật, vụ số 1106/2020 ngày 06/01/2021”, có chữ ký của giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Phạm Huỳnh Thanh L; 01 (một) đầu thuốc lá hiệu 555; 01 (một) cái túi đeo màu đen, đã qua sử dụng.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Tiền Việt Nam 10.000 đồng (Mười nghìn đồng) theo giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 04/02/2021.
(Theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 60/QĐ-VKS, ngày 05/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá).
* Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự;
Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
- Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/4/2021).
Bản án 73/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 73/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về