Bản án 08/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC

Ngày 06 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 443/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 505/2020/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 12 năm 2020, và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 26/12/2020 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo: Đặng Thành T, sinh năm 1995; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: ...., thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Tham gia Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Đặng Đ, sinh năm 1964 và con bà: Nguyễn Thị C, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 656/2019/HSPT ngày 30/8/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, xử phạt 18 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tính từ ngày bắt thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 20/12/2018 đến ngày 28/12/2018.

- Nhân thân: Ngày 11/9/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi khởi tố về tội: Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

2. Bị cáo: Nguyễn Tấn G, sinh năm 1995; Giới tính: Nam. Nơi ĐKHKTT và nơi ở: ........, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; tham gia Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông: Nguyễn C, sinh năm 1971 và con bà: Nguyễn Thị B, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 11/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi khởi tố về tội: Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

3. Bị cáo: Lê Công I, sinh năm 1995; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT và nơi ở:

......., thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; tham gia Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông: Lê M, sinh năm 1961 và con bà: Đinh Thị T, sinh năm 1959; có vợ: Đặng Trần Kiều A, sinh năm 1993 và 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

4. Bị cáo: Lê Ngọc Q, sinh năm 1996; Giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT và nơi ở......, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; tham gia Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông: Lê Văn N, sinh năm 1967 và con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Ngày 11/9/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi khởi tố về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đƣợc tóm tắt nhƣ sau:

Ngày 30/9/2019, Đặng Thành T (sinh năm 1995; trú tại ....., thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk) bị Toà án nhân thành phố Hà Nội xét xử vụ án hình sự phúc thẩm phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Trong thời gian chờ thi hành án phạt tù, T bỏ trốn nên ngày 15/11/2019, Công an tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định truy nã. Quá trình bỏ trốn, T đã sinh sống ở nhiều địa phương khác nhau.

Khong tháng 7/2019, Đặng Thành T quen biết CH (tên gọi khác là X, sinh năm 1985; Quốc tịch Đài Loan; Số hộ chiếu 314564054). T sử dụng tài khoản zalo có tên “Bá Đạo” liên hệ đến tài khoản Zalo “Bành Thị X” và “Vậy Là Tốt Rồi” của CH. Quá trình quen biết nhau, CH nói đang cần nhiều tài khoản Ngân hàng để sử dụng vào việc nhận chuyển khoản tiền cá độ bóng đá từ nước ngoài và hai bên thoả thuận, T sẽ đi mở tài khoản Ngân hàng để chuyển cho CH và CH trả T 4.000.000 đồng/01 tài khoản. Sau khi thống nhất với CH, T thuê Lê Ngọc Q, Nguyễn Tấn G ( có lý lịch nêu trên) và Kiên (chưa rõ nhân thân) cùng tham gia. Lê Ngọc Q rủ thêm Lê Công I cùng tham gia và T thoả thuận trả cho mỗi tài khoản từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng. Trước khi tham gia, T nói cho Q, G, Kiên và I biết mục đích mở tài khoản để nhận chuyển tiền cá độ bóng đá từ nước ngoài. Nhằm tránh bị các cơ quan chức năng phát hiện và tìm được chủ tài khoản, T đã hướng dẫn Q, G và Kiên đi mua chứng minh nhân dân tại các nhà nghỉ, cửa hàng cầm đồ, mang về bóc ảnh trên chứng minh nhân dân ra, thay ảnh của Q, G và Kiên vào rồi dùng đồng xu 200 đồng hơ nóng ấn lên mép ảnh tạo dấu nổi, sau đó mang chứng minh thư nhân dân đã được thay ảnh đi ép dẻo cùng sim điện thoại khuyến mại ra Ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mở tài khoản, có đăng ký Internet - banking rồi chuyển số tài khoản, sim điện thoại di động cho T để T chuyển lại cho CH. Sau khi được T hướng dẫn cách mở tài khoản thì Q hướng dẫn lại cho I biết cách mở tài khoản như trên.

Sau khi được thuê mở tài khoản, Q đến nhà nghỉ (không rõ địa chỉ) mua được chứng minh thư nhân dân mang tên Lý Bão Đ (sinh năm 1998; trú tại ...., quận 4, thành phố Hồ Chí Minh). Q mang về thay ảnh của mình vào và ngày 30/7/2019, Q đến Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Phòng giao dịch Nguyễn Khánh Toàn - chi nhánh Tây Hà Nội mở tài khoản mang tên Lý Bão Đ. Nguyễn Tấn G mua được chứng minh thư nhân dân mang tên Lê Trần Tuấn A (sinh năm 1997; ...., thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở ..., quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh) về thay ảnh của mình vào. Ngày 08/11/2019, G đến Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn chi nhánh Gia Định - Phòng giao dịch Văn Lang mở tài khoản mang tên Lê Trần Tuấn A và ngày 08/11/2019, G đến Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - chi nhánh 9, thành phố Hồ Chí Minh sử dụng giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Lê Trần Tuấn A mở tài khoản mang tên Lê Trần Tuấn A. Ngoài ra, Nguyễn Tấn G còn mua được giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Trần Đông U (sinh năm 1999; trú tại ......., huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) về thay ảnh của mình vào và ngày 07/8/2019, G đến Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - chi nhánh Bắc Hà Nội - Phòng giao dịch Nam Chương Dương mở tài khoản mang tên Trần Đông U. Lê Công I mua được chứng minh thư nhân dân mang tên Trần Duy N (sinh năm 1994, trú tại ..... thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) về thay ảnh của mình vào và ngày 07/11/2019, I đến Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - chi nhánh 9, thành phố Hồ Chí Minh - Phòng giao dịch An Nhơn mở tài khoản mang tên Trần Duy N; ngoài ra, Lê Công I còn mua được chứng minh thư nhân dân mang tên Hà Quốc D (sinh năm 1990; trú tại ...., thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) về thay ảnh của mình vào và ngày 09/12/2019, I đến Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội - Phòng giao dịch Võ Văn Tần, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh mở tài khoản mang tên Hà Quốc D. Sau khi mở được các tài khoản trên, G và I đã chuyển số tài khoản mang tên Lý Bão Đ (Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam); Lê Trần Tuấn A (Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn); Lê Trần Tuấn A (Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam); Trần Đông U (Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam); Trần Duy N (Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam); Hà Quốc D (Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội) và sim điện thoại đã đăng ký dịch vụ Internet - banking cho Q. Q điện thoại thông báo cho T biết để T nhắn tin số tài khoản cho CH. Sau đó, CH thuê xe ôm đến gặp T để lấy sim điện thoại đã kích hoạt Internet - banking của các tài khoản. Sau khi nhận được 06 số tài khoản và sim điện thoại, CH chuyển tiền vào tài khoản của Nguyễn Tấn G để trả cho T tổng số 24.000.000 đồng. G rút tiền ra đưa cho T và T trả cho Q 1.500.000 đồng/01 tài khoản; trả cho G 3.000.000 đồng/03 tài khoản; trả cho I 2.000.000 đồng/02 tài khoản. Số tiền còn lại là 17.500.000, T sử dụng chi tiêu cá nhân.

Sau khi có được 06 tài khoản do Đặng Thành T cung cấp, các đối tượng đã thực hiện hành vi lừa đảo bằng thủ đoạn giả danh cán bộ Công an, Viện kiểm sát gọi điện thoại đến yêu cầu chuyển tiền vào 06 tài khoản trên và 06 tài khoản khác, cụ thể như sau:

Khong 13 giờ 54 phút ngày 13/3/2020, bà Nguyễn Thị Thu Hg (sinh năm 1960; trú tại số nhà ............, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) nhận được cuộc gọi từ số điện thoại 0947866982, người gọi tự giới thiệu là nhân viên bưu điện (chưa xác định được nhân thân) thông báo bà Hg có một bưu phẩm của Ngân hàng thương mại Đầu tư và phát triển Việt Nam liên quan đến một khoản nợ quá hạn 45.000.000 đồng và có giấy triệu tập bà Hg. Đối tượng chuyển máy cho 02 đối tượng khác giới thiệu là cán bộ Công an, Viện kiểm sát (chưa xác định được nhân thân) đang thụ lý vụ án của bà Hg; đồng thời gửi qua zalo lệnh bắt giam bà Hg. Ngoài ra quá trình liên lạc, các đối tượng sử dụng các số điện thoại số +2252204 (tự giới thiệu là cán bộ Công an) và số +2252302 (tự giới thiệu là cán bộ Viện kiểm sát). Các đối tượng yêu cầu bà Hg chuyển tiền vào tài khoản do các đối tượng chỉ định. Hồi 18 giờ 06 phút ngày 13/3/2020, bà Hg đến Ngân hàng di động (Viettelpost) ở số 16, phố Lê Đại Hành, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội chuyển tổng số tiền 2.200.000.000 đồng đến 12 tài khoản ngân hàng, gồm: Chuyển tiền đến tài khoản Lý Bão Đ số tiền 200.000.000 đồng; đến tài khoản Lê Trần Tuấn A (Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn) số tiền 100.000.000 đồng; đến tài khoản Lê Trần Tuấn A (Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam) 150.000.000 đồng; đến tài khoản Trần Đông U số tiền 200.000.000 đồng; đến tài khoản Trần Duy N số tiền 200.000.000 đồng; đến tài khoản Hà Quốc D số tiền 200.000.000 đồng; đến tài khoản Phạm Phú Hội số tiền 200.000.000 đồng; đến tài khoản Mai Xuân An số tiền 200.000.000 đồng; đến tài khoản Hồ Nhật Trung số tiền 200.000.000 đồng; đến tài khoản Dương Hữu Lợi số tiền 200.000.000 đồng; đến tài khoản Nguyễn Tùng Lâm số tiền 150.000.000 đồng; đến tài khoản Hà Tuấn Đạt số tiền 200.000.000 đồng. Khi bà Hg về nhà thì biết bị lừa đảo nên đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội trình báo. Cơ quan điều tra đã kiểm tra điện thoại của bà Hg, xác định trong zalo điện thoại di động của bà Hg có hình ảnh của Đ/C BÙI MẠNH C - Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các hình ảnh Quyết định ban hành quy chế công tác thanh tra tài chính ... Quyết định ban hành quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, niêm phong tài sản thi hành án, Lệnh bắt Bị cáo để tạm giam… do Kiểm sát viên cao cấp Lê Minh T ký, có đóng dấu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Ngày 19/5/2020 các bị cáo Đặng Thành T cùng Lê Ngọc Q, Nguyễn Tấn G và Lê Công I đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đầu thú.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã thu giữ hồ sơ mở, sử dụng tài khoản (hồ sơ gốc) khách hàng Lý Bão Đ của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Ký hiệu A1); khách hàng Trần Đông U của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Ký hiệu A2); khách hàng Lê Trần Tuấn A của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (Ký hiệu A3); khách hàng Lê Trần Tuấn A của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Ký hiệu A4); khách hàng Trần Duy N của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Ký hiệu A5) và khách hàng Hà Quốc D của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (Ký hiệu A6). Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định 06 hồ sơ mở tài khoản trên. Tại bản kết luận giám định số 8221/KLGĐ-PC02-Đ4 ngày 18/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

1. Người có mẫu chữ viết đứng tên Lê Ngọc Q trên các tài liệu (Ký hiệu M1, M2) viết ra chữ viết phần nội dung và chữ ký dạng chữ viết “Đạt”, chữ viết dòng họ tên Lý Bão Đ dưới chữ ký trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A1).

2. Người có mẫu chữ viết đứng tên Nguyễn Tấn G trên các tài liệu (Ký hiệu M3, M4) viết ra chữ viết phần nội dung trên các mẫu cần giám định (Ký hiệu A2, A3) – Trừ chữ viết trong phần khoanh tròn mực màu đỏ); chữ viết dòng họ tên Trần Đông U dưới chữ ký trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A2); chữ ký dưới dạng chữ viết “Anh”, chữ viết dòng họ tên Lê Trần Tuấn A dưới chữ ký trên các mẫu cần giám định (Ký hiệu A3, A4).

3. Người có mẫu chữ viết đứng tên Lê Công I trên các tài liệu (Ký hiệu M5) viết ra chữ viết phần nội dung; chữ viết dòng họ tên Trần Duy N dưới chữ ký trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A5) và chữ ký dạng chữ viết “Dung”, chữ viết dòng họ tên Hà Quốc D dưới chữ ký trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A6).

*Không đủ cơ sở kết luận người có mẫu chữ ký đứng tên Lê Công I trên các tài liệu (Ký hiệu M5, M6) có ký ra chữ ký đứng tên Trần Duy N trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A5) hay không”.

Cơ quan điều tra đã cho Nguyễn Tấn G, Lê Ngọc Q và Lê Công I nhận dạng hồ sơ mở tài khoản của 06 tài khoản có liên quan trong đơn của bà Nguyễn Thị Thu Hg. Kết quả: G, Q và I đã tự nhận ra và xác nhận: Chữ viết và ảnh trên chứng minh nhân dân tại hồ sơ mở tài khoản là của mình như đã nêu trên.

Cơ quan điều tra đã xác minh anh Lý Bão Đ, anh Hà Quốc D, anh Lê Trần Tuấn A, anh Trần Duy N xác định quá trình sinh hoạt đã bị mất giấy chứng minh thư nhân dân, sau đó đã làm lại giấy chứng minh thư nhân dân mới. Anh Đ, anh Tuấn A, anh N và anh D đều không sử dụng chứng minh thư nhân dân cũ để mở tài khoản ngân hàng, không cho thuê mượn chứng minh thư nhân dân để mở tài khoản ngân hàng.

Đối với anh Trần Đông U (sinh năm 1999; trú tại ...., thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh), xác định anh U đi xuất khẩu lao động tại nước Rumani từ tháng 01/2019 đến nay chưa về địa phương.

Đối với 06 tài khoản ngân hàng mang tên khách hàng Phạm Phú H, Mai Xuân A đều mở ngày 08/11/2019 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội - chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh;

- Anh Phạm Phú H (sinh năm 1990; trú tại ...., huyện Krông Bút, tỉnh Đắk Lắk) khai: Năm 2013, anh H bị mất chứng minh thư nhân dân và đến năm 2019, anh H được cấp chứng minh thư nhân dân mới; anh H không mở tài khoản nào tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội; quá trình sử dụng chứng minh thư nhân dân cũ, anh H không cho ai thuê, mượn chứng minh thư nhân dân của mình.

Tài khoản tên Hồ Nhật Tr mở ngày 22/8/2019 tại Ngân hàng thương mại Công thương Việt Nam - Chi nhánh Nam Thăng Long - Phòng giao dịch Mễ Trì; tài khoản Dương Hữu L mở ngày 09/12/2019 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội - chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh; tài khoản Nguyễn Tùng L mở ngày 04/02/2020 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội - chi nhánh Đống Đa; tài khoản Hà Tuấn Đ mở ngày 14/02/2020 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - chi nhánh Hà Nội - Phòng giao dịch Kim Liên. Cơ quan điều tra đã điều tra, xác minh kết quả như sau:

- Anh Hồ Nhật Tr (sinh năm 1992; trú tại ...., huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) khai năm 2011, anh Tr bị mất chứng minh thư nhân dân, ngay sau đó anh Tr được cấp chứng minh thư nhân dân mới; anh Tr không mở tài khoản nào tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam; quá trình sử dụng chứng minh thư nhân dân cũ, anh Trung không cho ai thuê, mượn chứng minh thư nhân dân của mình.

- Đối với anh Mai Xuân A (sinh năm 1993; trú tại ...., huyện, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk), Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng anh A không có mặt tại địa phương.

- Đối với anh Dương Hữu L(sinh năm 1996; trú tại ...., quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh), Cơ quan điều tra đã xác minh, xác định năm 2013, anh L bán nhà đến sinh sống tại ...., huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Xác minh tại xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xác định không có ai tên là Dương Hữu L.

- Đối với tài khoản mang tên Nguyễn Tùng L và Hà Tuấn Đ, quá trình điều tra đã xác định: Khoảng tháng 11/2019, Nguyễn Xuân L (sinh năm 1993; trú tại xã ...., huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) quen một đối tượng (không rõ lai lịch cụ thể) trên nhóm Facebook đăng bài tìm mua tài khoản ngân hàng để chạy quảng cáo với giá 300.000 đồng/01 tài khoản. Hai bên liên lạc qua tài khoản zalo và không có số điện thoại của nhau. Qua zalo, người thanh niên gửi cho L nhiều số điện thoại và yêu cầu khi mở tài khoản thì dùng một trong các số điện thoại này đăng ký hồ sơ mở tài khoản và yêu cầu ngân hàng kích hoạt internet - banking, sau đó L sẽ nhắn tin gửi cho thanh niên đó số tài khoản ngân hàng và số điện thoại đăng ký xác nhận mở tài khoản, rồi thanh niên đó chuyển tiền qua tài khoản cá nhân của L tại ngân hàng Agribank để thanh toán tiền mua tài khoản cho L. Sau khi nhận lời, L sử dụng tài khoản Facebook “David Loc” đăng các bài viết có nội dung cần tìm người mở tài khoản ngân hàng để chạy quảng cáo, mỗi tài khoản ngân hàng L trả 100.000 đồng. Ngày 04/02/2020, L hướng dẫn Nguyễn Tùng L (sinh năm 1994; trú tại ...., quận Đống Đa, Hà Nội) đến Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội - chi nhánh Đống Đa mở tài khoản mang tên Nguyễn Tùng L, có đăng ký internet - banking bằng số điện thoại do Lộc cung cấp. Sau khi mở được tài khoản ngân hàng, L gửi số tài khoản ngân hàng cho L và L trả Tùng L 100.000 đồng. Ngày 14/02/2020, L hướng dẫn Hà Tuấn Đ đến Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - chi nhánh Hà Nội - Phòng giao dịch Kim Liên mở tài khoản mang tên Hà Tuấn Đ, có đăng ký Internet - banking bằng số điện thoại do Lộc cung cấp. Sau khi mở được tài khoản, Đ gửi số tài khoản ngân hàng cho Lộc và Lộc trả Đạt 100.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã thu giữ sao kê các tài khoản khách hàng Lê Trần Tuấn A (Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn) và Lê Trần Tuấn A (Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam), Lý Bão Đ, Trần Đông U, Trần Duy N, Hà Quốc D, Phạm Phú H, Mai Xuân A, Hồ Nhật Tr, Dương Hữu L, Nguyễn Tùng L và Hà Tuấn Đ, xác định: Ngày 13/3/2020, những tài khoản trên đều nhận tiền chuyển khoản của bà Nguyễn Thị Thu Hg tổng số là 2.200.000.000 đồng. Ngay sau đó 12 tài khoản trên đã chuyển khoản đến nhiều tài khoản khác nhau. Cơ quan điều tra xác minh thông tin đối tượng CH, xác định: CH, sinh ngày 08/9/1985; tên gọi khác A X; Quốc tịch Đài Loan; số hộ chiếu 314564054. CH xuất cảnh khỏi Việt Nam ngày 04/5/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã đề nghị Cục Đối ngoại - Bộ Công an thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự với Cảnh sát Đài Loan, kết quả như sau: Ngày 25/8/2020, Cảnh sát Đài Loan đã bắt được đối tượng CH về tội sử dụng công nghệ cao lừa đảo và rửa tiền. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đang tiếp tục phối hợp với Cục Đối ngoại - Bộ Công an và các Cơ quan chức năng thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự với Cảnh sát Đài Loan, để thu thập tài liệu làm căn cứ xử lý hành vi của CH và các đối tượng liên quan. Do không thể hoàn thành việc điều tra của tất cả các tội phạm và đối tượng phạm tội nên ngày 13/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã kết thúc điều tra, đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố các Bị cáo Đặng Thành T, Lê Ngọc Q, Nguyễn Tấn G và Lê Công I về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, theo quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự; đồng thời quyết định tách vụ án hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, theo quy định tại Điều 174 và 341 Bộ luật Hình sự; tách hành vi của đối tượng CH; các đối tượng sử dụng tài khoản để nhận tiền, chuyển tiền của bà Nguyễn Thị Thu Hg; các đối tượng mở tài khoản, thuê mở tài khoản để tiếp tục điều tra, nếu có căn cứ sẽ xử lý trong vụ án khác.

Cáo trạng số: 426/CT-VKS-P2 ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Đặng Thành T về “Tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” quy định tại các điểm b, đ, khoản 2, Điều 341 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Tấn G và Lê Công I về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Lê Ngọc Q đã phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng. Các bị cáo xác định hình vi của bị cáo là vi phạm pháp luật đề nghị Hội Đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm b, đ khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Đặng Thành T.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Tấn G và Lê Công I Áp dụng: Khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Ngọc Q.

Tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Thành T, Lê Ngọc Q, Nguyễn Tấn G và Lê Công I phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.

nh phạt chính: Xử phạt bị cáo Đặng Thành T từ 42 tháng đến 48 tháng tù. Phạt bị cáo Nguyễn Tấn G từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù.

Phạt bị cáo Lê Công I từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Phạt bị cáo Lê Ngọc Q từ 9 tháng đến 12 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015. Điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Truy thu sung quỹ Nhà nước của Đặng Thành T 17.500.000đ, của Nguyễn Tấn G 3.000.000đ, của Lê Công I 2.000.000đ, của Lê Ngọc Q 1.500.000đ.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về nội dung:

[2.1] Về tội danh và hình phạt áp dụng với các bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Trong khoảng thời gian từ tháng 07 đến tháng 12/2019, Đặng Thànhh T, Lê Ngọc Q, Nguyễn Tấn G và Lê Công I biết rõ các đối tượng đặt mua tài khoản ngân hàng để chuyển tiền cá độ bóng đá từ nước ngoài, nhưng vì động cơ vụ lợi, T hướng dẫn các đối tượng sử dụng tổng số 05 giấy chứng minh thư nhân dân giả để mở 06 tài khoản ngân hàng, có đăng ký Internet - banking. Trong đó, Nguyễn Tấn G sử dụng 02 giấy chứng minh thư nhân dân giả mở 03 tài khoản ngân hàng; Lê Công I sử dụng 02 giấy chứng minh thư nhân dân giả mở 02 tài khoản ngân hàng; Lê Ngọc Q sử dụng 01 giấy chứng minh thư nhân dân giả mở 01 tài khoản ngân hàng. Sau đó, G cùng I và Q chuyển số tài khoản ngân hàng trên cho T để T chuyển cho các đối tượng khác thực hiện lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đến ngày 19/5/2020, Đặng Thành T cùng Lê Ngọc Q, Nguyễn Tấn G và Lê Công I đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

nh vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, xâm phạm đến hoạt động bình thường và uy tín của cơ quan Nhà nước, của tổ chức, xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và công dân gây mất trật tự xã hội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” Điều 341 Bộ luật Hình sự;

Trong đó bị cáo Đặng Thành T phải chịu trách nhiệm về 5 Chứng minh thư nhân dân ( viết tắt CMTND) có ảnh giả do các bị cáo G, I và Q sử dụng không đúng với CMTND do cơ quan có thẩm quyền cấp để mở các tài khoản Ngân hàng; đồng thời bị cáo T được thu lời bất chính số tiền 24.000.000đ là phạm “Tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo điểm b,đ Điều 341 Bộ luật Hình sự;

Bị cáo Nguyễn Tấn G sử dụng 02 giấy chứng minh thư nhân dân giả mở 03 tài khoản ngân hàng; bị cáo Lê Công I sử dụng 02 giấy chứng minh thư nhân dân giả mở 02 tài khoản ngân hàng là phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự; bị cáo Lê Ngọc Q sử dụng 1 giấy chứng minh thư nhân dân giả mở 01 tài khoản ngân hàng.

Viện kiểm sát nhân dân Thành Phố Hà Nội truy tố bị cáo Đặng Thành T về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại điểm b, đ khoản 2, Điều 341 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Tấn G và Lê Công I phạm tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại điểm b khoản 2, Điều 341 Bộ luật Hình sự; Lê Ngọc Q bị truy tố theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã đầu thú nên được áp dụng tình tiết theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn vì vậy áp dụng Điều 58 Bộ Luật hình sự để phân hóa vai trò và quyết định hình phạt cụ thể:

Bị cáo Đặng Thành T chủ mưu đứng đầu nên có chịu mức hình phạt cao nhất, các bị cáo Nguyễn Tấn G, Lê Công I và Lê Ngọc Q đồng phạm vai trò thực hiện hành vi phạm tội hưởng mức án thấp hơn.

Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc để đảm bảo tính răn đe và giáo dục chung.

Vì vậy chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo theo tội danh khung hình phạt quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015, các điều luật áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề nghị trong bản luận tội là có căn cứ đúng pháp luật.

[2.2] Vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã đã thu giữ của Đặng Thành T 01 điện thoại Iphone số Imei 356545100801053 để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà Nước.

Các bị cáo được hưởng lợi số tiền do phạm tội mà có cụ thể: Đặng Thành T 17.500.000đ, của Nguyễn Tấn G 3.000.000đ, của Lê Công I 2.000.000đ, của Lê Ngọc Q 1.500.000đ nên truy thu sung quỹ Nhà Nước.

Việc xử lý vật chứng theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Về án phí: Bị cáo tuyên có tội nên phải chịu án phí theo qui định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đặng Thành T, Nguyễn Tấn G, Lê Công I và Lê Ngọc Q phạm tội “Tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”

Áp dụng: Điểm b, đ khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Đặng Thành T.

Phạt: Bị cáo Đặng Thành T 36 tháng tù, tổng hợp 18 tháng tù của Bản án số 656/2019/HSPT ngày 30/8/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 54 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 19/5/2019, (được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 20/12/2018 đến 28/12/2018 theo bản án số 656/2019/HSPT ngày 30/8/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội).

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Tấn G và Lê Công I.

Phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn G 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/5/2019.

Phạt: Bị cáo Lê Công I 24 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/5/2019.

Áp dụng: Điểm khoản 1, Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Ngọc Q.

Phạt: Bị cáo Lê Ngọc Q 12 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/5/2019.

Vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 Điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu sung quỹ Nhà Nước 01 điện thoại Iphone số Imei 356545100801053.

(Vật chứng đã được bàn giao cho Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội theo biên bản bàn giao ngày 02/12/2020).

Truy thu sung quỹ Nhà nước của Đặng Thành T 17.500.000đ, của Nguyễn Tấn G 3.000.000đ, của Lê Công I 2.000.000đ, của Lê Ngọc Q 1.500.000đ.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm

Quyền kháng cáo: Các bị cáo được Quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về