Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 06/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1979; HKTT: Đak Bla, thành phố K, tỉnh KonTum. Địa chỉ cư trú: Ấp Ô, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Mông Thị G, sinh năm 1982; HKTT: Thôn L, xã Đ, tỉnh Thái Nguyên. Địa chỉ cư trú: Nhà số 23/18/3, tổ 12, Khu phố A, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Phạm Văn T trình bày: Ông Phạm Văn T và bà Mông Thị G là vợ chồng, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên theo Giấy chứng nhận kết hôn số 19, quyển số 01-2009 ngày 10/4/2009. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống do công việc làm ăn kinh doanh không suông sẻ dẫn đến nợ nần, vợ chồng thường xuyên cải vã. Do đó, ông T đã bỏ ra ngoài sinh sống và tìm công việc làm thuê để kiếm tiền trả nợ. Hiện tại, tình cảm vợ chồng phai nhạt, không còn sự quan tâm, chăm sóc cho nhau, bà G đang sống cùng hai con, ông T vẫn về thăm nom và chăm lo cho các con. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn không thể cải thiện, hôn nhân không thể kéo dài nên ông T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà G.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Phạm Trúc P, sinh ngày 21/4/2008 và Phạm Anh T, sinh ngày 04/7/2009. Sau khi ly hôn, ông T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, không yêu cầu bà G cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: ông T Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà Mông Thị G nhưng bà G không đến Tòa án tham gia tố tụng, không gửi văn bản có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham gia phiên tòa có ý kiến: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ, đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có kiến nghị sửa chữa, bổ sung gì về phần thủ tục. Về nội dung, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con đối với bị đơn bà Mông Thị G. Bà G có nơi cư trú tại phường Phú Lợi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo qui định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà Mông Thị G theo đúng quy định của pháp luật nhưng bà G vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 228, Khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[3] Về nội dung: Ông Phạm Văn T và bà Mông Thị G là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại tại UBND xã Lam Vỹ, huyện Định Hoà, tỉnh Thái Nguyên theo Giấy chứng nhận kết hôn số 19, quyển số 01-2009 ngày 10/4/2009 nên quan hệ hôn nhân giữa bà G và ông T là hợp pháp theo qui định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Ông T yêu cầu được ly hôn với bà G vì cho rằng cuộc sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, tình cảm không còn, ông T và bà G đã sống ly thân hơn 04 năm nên vợ chồng không thể hàn gắn. Căn cứ Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại địa P ngày 23/02/2021 thể hiện thực tế ông T và bà G đã không còn sống chung nên không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà G nhưng bà không đến Tòa án tham gia tố tụng, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông T. Điều này càng chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa hai người đã thực sự không còn, mâu thuẫn giữa bà G và ông T đã thực sự trầm trọng và bà G cũng không mong muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của ông T là có căn cứ chấp nhận theo qui định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về con chung: Bà G và ông T có 02 con chung tên Phạm Trúc P, sinh ngày 21/4/2008 và Phạm Anh T, sinh ngày 04/7/2009. Sau khi ly hôn, ông T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cả hai con chung, không yêu cầu bà G cấp dưỡng nuôi con.

Xét hoàn cảnh thực tế hai con chung là Phạm Trúc P, sinh ngày 21/4/2008 và Phạm Anh T đều đang sinh sống, học tập ổn định cùng bà G, đồng thời 02 cháu đều có nguyện vọng được sống với bà G. Quá trình giải quyết vụ án, ông T có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của hai con chung đều thể hiện ông T và bà G hiện không còn sống chung nhà, ông T vẫn qua lại thăm nom, chăm sóc hai con, nhưng nếu nguyện vọng của các cháu là được sống với bà G thì ông T thống nhất và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 02 chung mỗi tháng là 2.000.000 đồng. Do bà G không tham gia tố tụng và cũng không có ý kiến về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử căn cứ theo nguyện vọng của 02 con chung và để đảm bảo cuộc sống, học tâp ổn định cho các con cần giao 02 con chung cho bà G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Xem xét thu nhập thực tế hàng tháng của ông T thì việc ông T tự nguyện cấp dưỡng nuôi 02 con chung hàng tháng 2.000.000đồng/02 con là phù hợp nên ghi nhận.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Từ những nhận định trên, xét thấy có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn T đối với bị đơn bà Mông Thị G.

Về án phí sơ thẩm: Ông Phạm Văn T phải chịu theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 235, Khoản 1 Điều 238, Điều 266, Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 9, 56, 57, 58, 59, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn T đối với bị đơn bà Mông Thị G về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Văn T được ly hôn với bà Mông Thị G (Giấy chứng nhận kết hôn số 19, quyển số 01-2009 do UBND xã Lam Vỹ, huyện Định Hoà, tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 10/4/2009).

- Về con chung: Bà Mông Thị G được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Phạm Trúc P, sinh ngày 21/4/2008 và Phạm Anh T, sinh ngày 04/7/2009.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Ông Phạm Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung là Phạm Trúc P, sinh ngày 21/4/2008 và Phạm Anh T, sinh ngày 04/7/2009 mỗi tháng 2.000.000đồng/02con cho đến khi hai con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Vì lợi ích hợp pháp của con chung, khi đương sự có yêu cầu Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con sau này nếu cần thiết. Không ai được quyền cản trở ông Phạm Văn T trong việc thăm nom, chăm sóc 02 con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Ông Phạm Văn T phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ toàn bộ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0050973 ngày 21/12/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Ông Phạm Văn T còn phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 06/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về