Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LĂK

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 178/2020/TLST-HNGĐ ngày 20/10/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Ánh T, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Số nhà 262 tổ dân phố T, thị trấn P, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn S, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04/9/2020 và các lời khai quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Võ Thị Ánh T trình bày:

Chị T (nguyên đơn) và anh N (bị đơn) kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 01/3/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung với bố mẹ chồng tại xã E, huyện K. Vợ chồng chung sống hòa thuận và hạnh phúc với nhau được một thời gian, đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và tính tình không hợp nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã, xô xát nhau. Đến tháng 02 năm 2018 nguyên đơn đã về nhà bố mẹ đẻ của mình tại tổ dân phố T, thị trấn P, huyện C, tinh Đắk Lắk ở và sống ly thân với bị đơn từ đó cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm hỏi han gì đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn.

Về con chung: Quá trình chung sống nguyên đơn với bị đơn có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Nhã U, sinh ngày 11/4/2016 và cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 21/7/2018. Hiện nay cháu U đang ở với bị đơn còn cháu B đang ở với nguyên đơn, sau khi ly hôn nguyên đơn có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng Bảo và đồng ý giao cháu U cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ tuổi thành niên. Về cấp dưỡng nuôi con chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản và nợ chung không có nên nguyên đơn không yêu cầu giải quyết. Đối với bị đơn sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và nhiều văn bản tố tụng khác để thông báo cho bị đơn tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho mình nhưng bị đơn đều vắng mặt tại các buổi làm việc ở Tòa án cũng như tại phiên tòa. Vì vậy, Tòa án không lấy được lời khai của bị đơn.

Theo biên bản xác minh tại chính quyền địa phương nơi nguyên đơn và bị đơn sinh sống, xác định tình trạng hôn nhân và nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn nguyên đơn và bị đơn là có thật theo như lời khai của nguyên đơn. Nay nguyên đơn làm đơn yêu cầu giải quyết ly hôn với bị đơn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên toà: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng, bị đơn không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc ly hôn với bị đơn. Về con chung giao con chung cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 21/7/2018 cho nguyên đơn và giao cháu Nguyễn Thị Nhã U, sinh ngày 11/4/2016 cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi đủ tuổi thành niên. Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và việc nuôi con chung với bị đơn nên đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do bị đơn có địa chỉ nơi cư trú tại Thôn S, xã E, huyện K, tinh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để thụ lý, giải quyết và xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn là đúng với quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn xác lập quan hệ hôn nhân với nhau trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 01/3/2016 nên quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp pháp và được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống giữa nguyên đơn và bị đơn thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và tính tình không hợp nhau dẫn đến vợ chồng cải vã, xô xát nhau. Đến tháng 02 năm 2018 nguyên đơn đã về nhà bố mẹ đẻ của mình tại tổ dân phố T, thị trấn P, huyện C, tỉnh Đắk Lắk ở và sống ly thân với bị đơn từ đó cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm hỏi han gì đến nhau. Sau khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện Tòa án đã nhiều lần thông báo cho bị đơn để tham gia tố tụng nhưng bị đơn không có mặt tại Tòa án để tham gia giải quyết nên đã từ bỏ quyền chứng minh và không thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân với nguyên đơn. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn đã vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc xin ly hôn với bị đơn.

[3] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình chung sống nguyên đơn với bị đơn có 02 người con chung là cháu Nguyễn Thị Nhã U, sinh ngày 11/4/2016 và cháu Nguyễn Gia B sinh ngày 21/7/2018. Đối với cháu Nguyễn Gia B hiện nay dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng, còn cháu Nguyễn Thị Nhã U đang được bị đơn nuôi dưỡng, chăm sóc và nguyên đơn đồng ý giao cho bị đơn nuôi dưỡng. Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên cần giao cháu U cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi đủ tuổi thành niên. Về cấp dưỡng nuôi con chung nguyên đơn không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản và nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 144, 147, 227, 235, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 khoản 2 Điều 47 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Ánh T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Ánh T được ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Nhã U, sinh ngày 11/4/2016 cho anh Nguyễn Văn N và giao cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 21/7/2018 cho chị Võ Thị Ánh T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi đủ tuổi thành niên. Vì lợi ích của con và theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

4. Về tài sản và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

5. Về án phí: Chị Võ Thị Ánh T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2019/0011034 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Anh Nguyễn Văn N không phải chịu án phí.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về