Bản án 08/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn Đ, sinh năm 1990, tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: làng M, xã Đ, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Mường; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H (chết) và bà Bùi Thị B, sinh năm 1950; có vợ là Kơ Tria K và 01 con; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 15/7/2008, bị TAND huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hoá xử phạt 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại bản án số 17/2008/HSST, ngày 01/9/2008 đã nộp án phí hình sự sơ thẩm, ngày 11/11/2010 đã thi hành xong án phạt tù; Ngày 25/02/2014, bị TAND huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá xử phạt 30 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại bản án số 02/2014/HSST, ngày 06/3/2014 đã nộp án phí hình sự sơ thẩm, ngày 25/02/2016 đã thi hành xong án phạt tù. Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/5/2020; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1982; Nơi cư trú: số 06, phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; có mặt - Những người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng:

1. Anh Lương Văn K; Nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.

2. Anh Hoàng L; Nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Đức T; Nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 12/5/2020, Phạm Văn Đ và P cùng ăn, uống tại khu vực Chi Lăng, Phường 9, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Trong lúc ăn, uống, P rủ Đ cùng đi cắt trộm bông Atisô tại huyện Lạc Dương để bán lấy tiền tiêu xài, Đ đồng ý. P bàn với Đ đổi biển kiểm soát xe mô tô cho nhau vì xe mô tô của P thường sử dụng để đi trộm cắp tài sản nên sợ bị phát hiện. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, P tháo biển kiểm soát 49C1 – 112.54 từ xe mô tô của P đưa cho Đ gắn vào xe mô tô của Đ, Đ tháo biển kiểm soát 49F1 – 043.94 từ xe mô tô của Đ đưa cho P gắn vào xe mô tô của P. P và Đ cùng đi 02 xe mô tô vào khu vực thôn Đarahoa, xã Đa Nhim, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng để cắt trộm bông Atisô. Khi đi đến vườn của anh Nguyễn Trung H, cả 02 không thấy người trông coi nên Đ đã dựng xe mô tô trên đồi thông, cách vườn Atisô khoảng 200m, P dựng xe mô tô gần chòi trong vườn, cả 02 cùng đi vào vườn của anh H, dùng dao đã chuẩn bị sẵn cắt bông Atisô bỏ vào bao. Cùng lúc đó, anh H đang ở nhà tại phường A, thành phố Đ quan sát camera tại vườn và phát hiện 02 đối tượng đang cắt trộm bông Atisô nên đã gọi điện thoại cho anh Nguyễn Đức T, Hoàng L, Lương Văn K là người làm thuê cho anh H, đồng thời báo Công an xã Đa Nhim cùng phối hợp bắt quả tang Đ và P. Qúa trình bắt quả tang, P đã chống trả và tẩu thoát, bỏ lại 02 bao bông Atisô tươi. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm đối tượng P và xe mô tô biển kiểm soát 49F1- 043.94. Cơ quan điều tra đã thu giữ 55kg bông Atisô tươi là tang vật của vụ án.

Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 13/5/2020 tại diện tích đất trồng atiso thuộc tiểu khu 120, thôn Đarahoa, xã Đa Nhim, huyện Lạc Dương của anh Nguyễn Trung H đã xác định vị trí Đ và P đã cắt trộm bông là băng thứ 2 và băng thứ 3.

Kết luận định giá tài sản số 12/KH-HĐĐGTSTTHS, ngày 13/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạc Dương đã xác định 55kg bông Atisô tươi tại thời điểm ngày 12/5/2020 là 3.850.000 đ (ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 09/CT-VKS-LD ngày 01/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Phạm Văn Đ về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã khai báo ở Cơ quan điều tra như nội dung bản cáo trạng truy tố và lời trình bày tại phiên tòa hôm nay như nội dung vụ án được tóm tắt ở trên; bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì nội dung bản cáo trạng, và không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Người bị hại trình bày: Do quan sát camera tại vườn và phát hiện 02 đối tượng đang cắt trộm bông Atisô nên đã gọi điện thoại cho anh T, L, K là người làm thuê cho anh, đồng thời báo Công an xã Đa Nhim cùng phối hợp bắt quả tang; Anh đã được Cơ quan điều tra trả lại 55 kg bông Atisô tươi; tại phiên tòa hôm nay anh không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nữa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Văn Đ về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng số 09/VKS-LD ngày 01/9/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ từ 12 tháng đến 18 tháng tù; về tang vật đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 dao màu đen, bằng kim loại, dài 19cm, lưỡi liền cán dài 5cm, lưỡi 14cm, mũi dao nhọn, bề rộng nhất lưỡi dao rộng 3,5cm do không còn giá trị sử dụng. Đối với 01 xe máy Wave màu đỏ - đen, số máy: JC43E1466321, số khung: RLHJC4319AY666185 do chưa xác định được chủ sở hữu nên tiếp tục giao cho Công an huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng tiếp tục xác minh chủ sở hữu và giải quyết theo quy định của pháp luật. Về án phí đề nghị buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo trình bày đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của chứng cứ, tài liệu và các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Các chứng cứ, tài liệu được thu thập và cung cấp theo đúng quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận chiều ngày 12/5/2020 trong lúc ăn nhậu tại khu vực Chi Lăng, thành phố Đà Lạt, bị cáo được P rủ cùng đi cắt trộm bông Atisô tại huyện Lạc Dương để bán lấy tiền tiêu xài, sau khi được P rủ bị cáo đồng ý. P bàn với bị cáo đổi biển kiểm soát xe mô tô cho nhau vì xe mô tô của P thường sử dụng để đi trộm cắp tài sản nên sợ bị phát hiện. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, P tháo biển kiểm soát 49C1 – 112.54 từ xe mô tô của P đưa cho bị cáo gắn vào xe mô tô của bị cáo, sau đó bị cáo tháo biển kiểm soát 49F1 – 043.94 từ xe mô tô của bị cáo đưa cho P gắn vào xe mô tô của P sau đó đi vào khu vực thôn Đarahoa, xã Đa Nhim, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng để cắt trộm bông Atisô thì bị phát hiện và bắt giữ. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 12/KH- HĐĐGTSTTHS, ngày 13/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạc Dương đã xác định 55kg bông Atisô tươi tại thời điểm ngày 12/5/2020 là 3.850.000 đ (ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án; lời khai của bị hại và những người tham gia tố tụng khác đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành của tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đối với người tên P là người đã cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với bị cáo; P đã bỏ trốn, đồng thời Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lý lịch của P nên đã ra thông báo truy tìm, sau khi xác định có đủ căn cứ sẽ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; do vậy cũng cần áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[5]. Về quyết định hình phạt : Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ bị cáo biết rõ tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nếu ai xâm phạm không được sự đồng ý của chủ sở hữu sẽ bị pháp luật trừng trị thích đáng, trong khi đó bị cáo là một thanh niên có sức khỏe, bị cáo có thể dùng sức khỏe của mình để tạo ra của cải, vật chất phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của bản thân bị cáo, nhưng chỉ vì lười lao động nhưng lại muốn có tiền tiêu xài bị cáo bất chấp tất cả các quy định của pháp luật, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của bản thân bị cáo; hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Ngoài ra bị cáo còn là người có nhân thân rất xấu ngày 15/7/2008, bị TAND huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hoá xử phạt 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại bản án số 17/2008/HSST, ngày 01/9/2008, ngày 25/02/2014, bị TAND huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá xử phạt 30 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại bản án số 02/2014/HSST, ngày 06/3/2014; Do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và xét thấy cần thiết phải áp dụng một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời mang tính phòng ngừa chung cho xã hội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, không có khả năng kinh tế, nên miễn hình phạt bổ sung phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra người bị hại đã nhận lại toàn bộ số tang vật bị cáo trộm; tại phiên tòa hôm nay người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8]. Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Dương đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 55kg bông atisô tươi cho anh Nguyễn Trung H là chủ sở hữu hợp pháp là đúng quy định của pháp luật.

Tịch thu tiêu hủy: 01 dao màu đen, bằng kim loại, dài 19cm, lưỡi liền cán dài 5cm, lưỡi 14cm, mũi dao nhọn, bề rộng nhất lưỡi dao rộng 3,5cm do không còn giá trị sử dụng.

Đối với 01 xe máy Wave màu đỏ - đen, số máy: JC43E1466321, số khung: RLHJC4319AY666185 do chưa xác định được chủ sở hữu nên tiếp tục giao cho Công an huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng tiếp tục xác minh chủ sở hữu và giải quyết theo quy định của pháp luật.

[9]. Về án phí và quyền kháng cáo: buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo; bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” 2. Căn cứ vào Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo: Phạm Văn Đ 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2020.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung quy định tai khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 dao màu đen, bằng kim loại, dài 19cm, lưỡi liền cán dài 5cm, lưỡi 14cm, mũi dao nhọn, bề rộng nhất lưỡi dao rộng 3,5cm do không còn giá trị sử dụng.

Đối với 01 xe máy Wave màu đỏ - đen, số máy: JC43E1466321, số khung: RLHJC4319AY666185 do chưa xác định được chủ sở hữu nên tiếp tục giao cho Công an huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng tiếp tục xác minh chủ sở hữu và giải quyết theo quy định của pháp luật. (theo biên bản giao nhận tang vật ngày 01/9/2020) 4. Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về