Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BÔI – TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 109/2020/TLST- HNGĐ, ngày 24 tháng 6 năm 2020, về việc tranh chấp hôn nhân gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: ChBùi Kim O, sinh năm 1997.

Đa chỉ: xóm T, xã TS, huyện KB, tỉnh HB. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Bùi Tiến A, sinh năm 1993.

Đa chỉ: xóm BC, xã TS, huyện KB, tỉnh HB. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/6/2020 và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nguyên đơn là chị Bùi Kim O trình bày:

Chị và anh Bùi Tiến A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã TS, huyện KB, tỉnh HB vào ngày 03/02/2016. Sau kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, từ tháng 9/2017 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng về quan điểm, tính cách, lối sống, không tìm được tiếng nói chung. Gia đình hai bên đã khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2017 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân không ai quan tâm chăm sóc đến ai, mỗi người đi làm ăn ở một nơi. Chị đã thông báo cho anh Bùi Tiến A về để làm thủ tục ly hôn, giải phóng cho nhau, phía anh A đồng ý ly hôn nhưng không về. Xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn anh Bùi Tiến A.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Bùi Bảo V, sinh ngày 20/12/2015, hiện nay đang ở với chị O. Khi ly hôn, chị O xin được nuôi con và chưa yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết. Bị đơn là anh Bùi Tiến A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án nhưng anh A vẫn không có mặt tại Tòa án do đó Tòa án không ghi được lời khai và không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã tiến hành niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh A vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử như sau:

- Về tố tụng:

+ Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, thấy rằng: Việc thụ lý đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh chấp. Quá trình điều tra xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

+ Về chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Đối với nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chấp hành tốt các quy định tại các Điều 70, điều 71 của BLTTDS. Đối với bị đơn: anh Bùi Tiến A mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do, như vậy anh A đã từ bỏ quyền của mình quy định tại các Điều 70, 72 của BLTTDS.

- Về nội dung:

Đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Kim O. Xử cho chị Bùi Kim O được ly hôn với anh Bùi Tiến A.

Về con chung: Giao con chung Bùi Bảo V, sinh ngày 20/12/2015 cho chị Bùi Kim O trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị O chưa yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ chung: không có, không đề nghị giải quyết nên không đề cập.

Về án phí: chị Bùi Kim O phải chịu 300.000đ án phí Ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp trong vụ án là tranh chấp về hôn nhân. Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình nên Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Bùi Tiến A đã được triệu tập hợp lệ để ghi lời khai, trình bày ý kiến, tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không có mặt theo giấy triệu tập. Tòa án đã xác minh tại gia đình và nơi cư trú của anh Bùi Tiến A, tiến hành tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh A vắng mặt không có lý do, đồng thời chị Bùi Kim O có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1, 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh A theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Kim O và anh Bùi Tiến A khi kết hôn là tự nguyện, không vi phạm quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hơn tại Ủy ban nhân dân xã TS, huyện KB, tỉnh HB vào ngày 03/02/2016. Do vậy hôn nhân giữa chị Bùi Kim O và anh Bùi Tiến A được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Theo chị O nguyên nhân mâu thuẫn do anh Bùi Tiến A không tu chí làm ăn dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Chị và gia đình đã khuyên bảo nhưng không có kết quả, hiện vợ chồng ly thân từ tháng 12/2017 đến nay, không còn quan tâm đến nhau.

Tòa án đã đến gia đình anh Bùi Tiến A gặp ông Bùi Đức Th trú tại xóm BC, xã TS, huyện KB, tỉnh HB để xác minh tình trạng hôn nhân của chị O và anh A. Ông Th xác nhận anh Bùi Tiến A là con ruột của ông nhưng không tu chí làm ăn, đua đòi ham chơi, ảnh hưởng đến gia đình, ông chỉ cho để tên trên hộ khẩu chứ không quan tâm đến anh Bùi Tiến A nữa, ông không cung cấp thông tin gì và không ký biên bản xác minh, Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Qua kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã TS, huyện KB, tỉnh HB xác nhận: Chị Bùi Kim O và anh Bùi Tiến A có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TS ngày 03/02/2016. sau khi kết hôn vợ chồng sống tại nhà anh A một thời gian sau đó chuyển qua nhà chị O sống. Do anh A không tu chí làm ăn, ham chơi nên vợ chống mâu thuẫn, hiện nay anh A không có mặt ở địa phương, thỉnh thoảng có về địa phương nhưng lại đi ngay vì ông Th không cho vào nhà. Tư pháp xã đã tống đạt giấy triệu và thông báo của Tòa án cho gia đình theo đúng quy định của pháp luật.

Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Bùi Kim O và anh Bùi Tiến A đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không còn tồn tại. Mặt khác, anh A biết chị O nộp đơn xin ly hôn nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do, không đến Tòa án để thể hiện ý kiến của mình, điều này chứng tỏ anh Bùi Tiến A cũng không mong muốn được hàn gắn để vợ chồng đoàn tụ. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Kim O được ly hôn với anh Bùi Tiến A là phù hợp với điều 56 luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Bùi Kim O và anh Bùi Tiến A có 01 con chung là Bùi Bảo V, sinh ngày 20/12/2015. Khi ly hôn, chị Bùi Kim O xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Bùi Bảo V và chưa yêu cầu anh Bùi Tiến A cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy cháu Bùi Bảo V còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ, hiện cháu đang ở với chị O, chị O có công việc thu nhập ổn định và có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, phía anh Bùi Tiến A đi làm ăn xa không có mặt ở địa phương. Để đảm bảo quyền lợi cũng như ổn định cuộc sống của con, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cho chị O trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bùi Bảo V, sinh ngày 20/12/2015 đến khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Bùi Kim O chưa yêu cầu anh Bùi Tiến A cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[4] Ttài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 179; điểm b khoản 2 Điều 227, điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Kim O; xử cho chị Bùi Kim O được ly hôn với anh Bùi Tiến A.

2. Về con chung: Giao con chung Bùi Bảo V, sinh ngày 20/12/2015 cho chị Bùi Kim O trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị O chưa yêu cầu anh Bùi Tiến A cấp dưỡng nuôi con. Anh Bùi Tiến A được quyền thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.

3. Án phí: Chị Bùi Kim O phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0007148 ngày 24/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bôi; chị Bùi Kim O đã nộp xong án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Kim O có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Bùi Tiến A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bôi - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về